Ronald Reagan – “Tôi
  tin chủ nghĩa cộng sản là một chương buồn, kỳ quặc khác trong lịch sử 
 con người mà những trang cuối cùng của chương ấy thậm chí hiện nay đang
  được viết. Tôi tin điều này vì nguồn gốc sức mạnh của chúng ta trong 
sự  tìm kiếm tự do của con người  không phải là vật chất mà tinh thần. 
Và vì  sức mạnh ấy không có giới hạn, nó ắt hẳn phải làm khiếp đảm rồi 
cuối  cùng chiến thắng những kẻ nào muốn áp đặt ách nô lệ lên đồng loại 
của  họ…”
Ronald Reagan (1911-2004) là một
  trong những vị Tổng thống Hoa Kỳ tài ba nhất và nổi tiếng nhất. Ông là
  một trong số ít người có công rất lớn trong việc đánh bại chủ nghĩa 
cộng  sản trên thế giới. Năm 1983 ông đọc một bài diễn văn trước Hội 
nghị  Phúc âm quốc gia tại thành phố Orlando, tiểu bang Florida.  Bài 
diễn văn  “Đế Quốc Ác” này đã gây ra làn sóng bất bình lớn trong khối 
cộng sản,  nhất là Liên Xô, và cả ngay ở Mỹ vì một số người sợ rằng 
chiến tranh sẽ  nổ ra giữa hai siêu cường. Tổng thống Reagan là vị 
nguyên thủ quốc gia  đầu tiên trên thế giới đã nói ra sự thật trần trụi 
rằng Liên Xô là đế  quốc Ác. Như nhà văn Anh Geogre Orwell từng nói 
trong thời dối trá phổ  quát nói ra sự thật là một hành động cách mạng. 
Tổng thống Reagan bằng  can đảm của mình đã nói ra một sự thật mà từ đấy
 đưa đến sự sụp đổ của  các chế độ toàn trị cộng sản. 
*
Trần Quốc Việt (danlambao) trích dịch
Bây
 giờ, rõ ràng, đa phần sự đồng thuận  về chính trị và xã hội mà tôi đã 
đề cập đến đều được dựa trên quan điểm  tích cực về lịch sử Mỹ, một lịch
 sử đáng tự hào về những thành tựu và ưu  việt. Nhưng chúng ta không bao
 giờ được quên rằng không có chương trình  hành động nào của chính phủ 
sẽ làm cho con người trở nên hoàn thiện.  Chúng ta biết sống trên đời 
này có nghĩa là chấp nhận điều mà các triết  gia gọi là hiện tượng luận 
về cái ác hay, như các nhà thần học diễn tả,  giáo lý về tội lỗi.
Ác
 và thiện luôn luôn hiện diện ở trên  đời, và chúng ta được Kinh thánh 
và Đức Chúa Jesus răn hãy chống lại cái  ác bằng tất cả sức mạnh của 
mình. Quốc gia của chúng ta cũng có di sản  của cái ác mà cần phải giải 
quyết. Từ xưa đến nay vinh quang của đất  nước này chính là khả năng 
vượt qua bao cái ác về đạo lý trong quá khứ  của mình. Chẳng hạn, cuộc 
đấu tranh lâu dài của những công dân thiểu số  đòi các quyền bình đẳng, 
vốn từng là cội nguồn của sự chia rẽ và nội  chiến, giờ đây lại là điều 
tự hào cho tất cả những người Mỹ. Chúng ta  không được lùi bước. Đất 
nước này không có chỗ cho kỳ thị chủng tộc, chủ  nghĩa bài Do Thái, hay 
những hình thức hận thù sắc tộc và chủng tộc  khác.
Nhưng
 cho dù các trang sử buồn nào tồn  tại trong quá khứ chăng nữa, bất kỳ 
ai khách quan nhận xét đều phải có  quan điểm tích cực về lịch sử Mỹ, 
một lịch sử đã trở thành câu chuyện  xưa nay về bao hy vọng được toại 
nguyện và bao giấc mơ thành hiện thực.  Nhất là trong thế kỷ này, nước 
Mỹ đã gìn giữ ngọn lửa của đuốc tự do,  nhưng giữ lửa không phải cho 
mình mà cho hàng triệu người khác trên toàn  thế giới.
Và
 điều này đưa tôi đến phần cuối cùng  trong bài diễn văn hôm nay. Trong 
cuộc họp báo lần đầu tiên trên cương  vị Tổng thống, để trả lời cho một 
câu hỏi trực tiếp, tôi đã chỉ ra rằng,  với tư cách là những người 
Mác-xít Lê nin nít tốt, các nhà lãnh đạo Xô  viết đã tuyên bố công khai 
và minh bạch rằng đạo đức duy nhất họ thừa  nhận là đạo đức sẽ đẩy mạnh 
sự nghiệp của họ, tức cách mạng thế giới.  Tôi nghĩ tôi nên nói rõ ra 
rằng tôi đã chỉ đang trích dẫn Lê nin, tinh  thần hướng dẫn của họ, 
người mà vào năm 1920 nói rằng họ bác bỏ tất cả  các đạo đức xuất phát 
từ các tư tưởng siêu nhiên–tức là tên họ đặt cho  tôn giáo –hay những tư
 tưởng bên ngoài các khái niệm giai cấp. Đạo đức  hoàn toàn phụ thuộc 
vào quyền lợi của cuộc chiến tranh giai cấp. Cho nên  tất cả những gì 
cần thiết cho sự tiêu diệt trật tự xã hội bóc lột cũ và  cho sự đoàn kết
 những người vô sản lại đều được coi là đạo đức.
Từ
 đấy tôi nghĩ việc nhiều người có tầm  ảnh hưởng lớn từ chối thừa nhận 
sự thật cơ bản này của học thuyết Xô  Viết minh hoạ sự miễn cưỡng lịch 
sử nhìn thấy bản chất thật sự của các  chính quyền toàn trị. Chúng ta đã
 nhìn thấy hiện tượng này trong thập  niên 1930. Ngày nay chúng ta cũng 
nhìn thấy hiện tượng này rất nhiều  lần.
Điều
 này không có nghĩa chúng ta nên tự  cô lập và từ chối mưu tìm sự cảm 
thông với họ. Tôi có ý định làm tất cả  mọi thứ tôi có thể làm nhằm 
thuyết phục họ mục đích hoà bình của chúng  ta, nhắc cho họ nhớ rằng 
chính Phương tây từ chối xử dụng độc quyền hạt  nhân của mình trong thập
 niên bốn mươi và năm mươi để tranh đoạt lãnh  thổ và hiện nay đề nghị 
cắt giảm 50 phần trăm hoả tiễn đạn đạo chiến  lược và loại bỏ hoàn toàn 
loại hoả tiễn hạt nhân tầm trung đặt trên đất  liền.
Tuy
 nhiên, đồng thời, chúng ta phải làm  cho họ hiểu rằng chúng ta nhất 
định không bao giờ thoả hiệp các nguyên  tắc và tiêu chuẩn của chúng ta.
 Chúng ta nhất định không bao giờ cho  không tự do của chúng ta. Chúng 
ta nhất định không bao giờ từ bỏ niềm  tin vào Chúa. Hơn nữa chúng ta 
nhất định không bao giờ ngưng tìm kiếm  một nền hoà bình đích thực. 
Nhưng chúng ta không thể đảm bảo cho bất kỳ  điều nào trong các điều mà 
Mỹ luôn luôn tượng trưng này qua cái gọi là  các giải pháp ngưng phát 
triễn vũ khí hạt nhân do một số người đề nghị.
Sự
 thật là ngưng bây giờ sẽ là một sự  gian lận rất nguy hiểm, vì đó chỉ 
là ảo tưởng về hoà bình. Hiện thực là  chúng ta phải tìm hoà bình qua 
sức mạnh.
Tôi
 sẽ đồng ý ngưng chỉ nếu chúng ta có  thể ngưng tất cả các tham vọng của
 Xô viết. Ngưng ở mức độ vũ khí hiện  nay sẽ khiến cho những người Xô 
viết không thấy bất kỳ khích lệ nào để  thương lượng nghiêm túc ở Geneva
 và chúng ta thật sự không còn các cơ  hội đạt được sự cắt giảm vũ khí 
quan trọng mà chúng ta đã đề nghị. Ngược  lại, nhờ việc ngưng như thế họ
 sẽ đạt được các mục tiêu của họ.
Ngưng
 phát triễn vũ khí hạt nhân sẽ  thưởng cho Liên Xô về sự phát triển quân
 sự cực kỳ lớn và không ai bì  được của họ. Ngưng như thế sẽ ngăn cản sự
 hiện đại hoá thiết yếu và quá  muộn của quốc phòng đồng minh và Hoa Kỳ 
và sẽ làm cho lực lượng vũ trang  già cỗi của chúng ta ngày càng dễ bị 
tổn thương. Và một sự ngưng trung  thực sẽ cần rất nhiều sự thương lượng
 trước đó về hệ thống và số lượng  phải được hạn chế và về những biện 
pháp nhằm đảm bảo sự xác minh và sự  tuân thủ có hiệu quả. Cho nên ngưng
 kiểu như được đề nghị sẽ hầu như  không thể nào xác minh được. Một nỗ 
lực quan trọng như thế sẽ khiến  chúng ta hoàn toàn không tập trung vào 
những thương lượng hiện nay của  chúng ta để đạt đến những cắt giảm đáng
 kể.
Cách
 đây nhiều năm, tôi nghe một người  cha trẻ, một người trẻ rất nổi tiếng
 trong giới giải trí, phát biểu  trước một đám đông rất lớn ở 
California. Ngày đó trong thời chiến tranh  lạnh, và chủ nghĩa cộng sản 
và nếp sống của chúng ta đè nặng trong tâm  tưởng của mọi người. Và anh 
ta nói về chủ đề đó. Rồi bỗng đột nhiên tôi  nghe anh nói, “Tôi thương 
những đứa con gái bé bỏng của tôi hơn tất cả  mọi thứ —” Tôi liền nhủ 
thầm, ” Thôi hỏng rồi, đừng. Anh không thể  –không nói thế được.” Nhưng 
tôi đã đánh giá thấp anh. Anh nói tiếp: “Tôi  thà thấy các con của tôi 
chết ngay lúc này, tuy nhiên vẫn còn tin ở  Chúa, còn hơn thấy chúng lớn
 lên dưới chế độ cộng sản rồi một ngày kia  chết đi không còn tin ở 
Chúa.”
Trong
 đám thính giả ấy có đến hàng ngàn  người trẻ. Họ đứng lên hoan hô vui 
sướng. Họ đã nhận ra tức thì sự thật  sâu xa trong lời anh ta vừa nói, 
sự thật về thân xác và linh hồn và về  điều gì thật sự quan trọng.
Vì
 thế, chúng ta hãy cầu nguyện cho sự  cứu rỗi của tất cả những ai hiện 
sống trong bóng tối toàn trị đó — cầu  nguyện rằng họ sẽ khám phá niềm 
vui biết Chúa. Nhưng cho tới lúc đó,  chúng ta hãy ý thức rằng trong khi
 họ rao giảng bản chất ưu việt của nhà  nước họ, tuyên bố quyền toàn 
năng của nhà nước áp đặt lên con người cá  nhân, và tiên đoán sự thống 
trị cuối cùng của nhà nước lên trên tất cả  các dân tộc trên Trái Đất, 
họ chính là tâm điểm của cái ác trong thế  giới hiện đại.
Chính
 C.S.Lewis, trong tác phẩm  “Screwtape Letters”, đã viết: “Cái ác lớn 
nhất bây giờ không được gây ra  trong những “hang ổ tội ác” bẩn thỉu hôi
 hám mà Dickens thích miêu tả.  Nó lại càng không được gây ra trong các 
trại tập trung và các trại lao  động. Tại những nơi đó chúng ta chỉ thấy
 kết quả cuối cùng của nó. Nhưng  nó được thai nghén và được ra lệnh 
(được truyền đi, được ủng hộ, được  thực hiện và được ghi lại)  trong 
những căn phòng làm việc sạch sẽ, ấm  cúng, có thảm êm và đèn sáng, bởi 
những người trầm lặng ,áo trắng tinh,  móng tay cắt ngắn, má cạo láng, 
những người không cần lớn tiếng.”
Cho
 nên, vì “những người trầm lặng này”  không “lớn tiếng”, vì họ đôi lúc 
nói giọng êm ái mượt mà về tình huynh  đệ và hoà bình, vì, giống như 
những nhà độc tài trước họ, họ luôn luôn  “đòi lãnh thổ cuối cùng”, một 
số người bắt chúng ta tin những lời họ nói  và chiều theo bản năng hiếu 
chiến của họ. Nhưng nếu lịch sử dạy chúng  ta điều gì, lịch sử dạy ta 
rằng sự xoa dịu xuẫn ngốc hay mơ ước hão  huyền về các đối thủ của chúng
 ta thực là khờ dại. Điều đấy có nghĩa là  phản bội quá khứ của chúng 
ta, hoang phí tự do của chúng ta.
Vì
 thế, tôi kêu gọi quý vị hãy lên tiếng  chống lại những kẻ muốn đặt Hoa 
Kỳ vào vị trí thấp kém về đạo đức và  quân sự. Vì thế, khi thảo luận về 
các đề nghị ngưng vũ khí hạt nhân, tôi  kêu gọi quý vị hãy coi chừng sự 
quyến rũ của  lòng kiêu hãnh — sự quyến  rũ khi vô tâm tuyên bố mình 
hoàn toàn đứng trên chuyện này và gán cho  cả hai phía lỗi lầm như nhau,
 khi bỏ qua những sự thật của lịch sử và  bản năng hiếu chiến của đế 
quốc Ác, khi dại dột gọi cuộc chạy đua vũ  trang là một sự hiểu lầm lớn 
và qua đó tự tách rời mình ra khỏi cuộc đấu  tranh giữa đúng và sai và 
giữa thiện và ác.
Tuy
 sức mạnh quân sự của Mỹ quan trọng,  nhưng để tôi nói thêm ở đây rằng 
tôi trước sau luôn luôn khẳng định cuộc  đấu tranh hiện nay đang diễn ra
 trên thế giới sẽ không bao giờ được  quyết định bởi bom đạn hay hỏa 
tiễn, bởi quân đội hay sức mạnh quân sự.  Khủng hoảng thật sự chúng ta 
đối mặt ngày nay là cuộc khủng hoảng tinh  thần; cội rễ của nó là sự thử
 thách ý chí đạo đức và đức tin.
Whittaker
 Chambers, người mà nhờ sự trở  lại đạo đã ra làm nhân chứng cho một 
trong những vụ gây chấn động khủng  khiếp trong thời đại của chúng ta, 
vụ án Hiss-Chambers, viết rằng cuộc  khủng hoảng của Thế giới Tây phương
 tồn tại tới mức độ Tây phương thờ ơ  với Chúa, tới mức độ mà Tây 
phương  hợp tác trong nỗ lực của chủ nghĩa   cộng sản để làm cho con 
người đứng bơ vơ không có Chúa. Rồi ông nói, vì  chủ nghĩa Mác-xít Lê 
nin nít thực sự là tín ngưỡng xưa nhất thứ hai, đầu  tiên đã được tuyên 
bố trong Vườn Địa Đàng qua những lời đầy quyến rũ,  “Các ngươi sẽ trở 
nên như các chúa”. Thế giới Tây phương có thể đối phó  lại thách thức 
này, ông viết, ” nhưng chỉ miễn là lòng tin của Tây  phương vào Chúa và 
vào tự do Người ban cho lớn bằng lòng tin của chủ  nghĩa cộng sản vào 
Con người.” (1)
Tôi
 tin chúng ta sẽ vươn lên để đối phó  lại thách thức ấy. Tôi tin chủ 
nghĩa cộng sản là một chương buồn, kỳ  quặc khác trong lịch sử con người
 mà những trang cuối cùng của chương ấy  thậm chí hiện nay đang được 
viết. Tôi tin điều này vì nguồn gốc sức  mạnh của chúng ta trong sự tìm 
kiếm tự do của con người  không phải là  vật chất mà tinh thần. Và vì 
sức mạnh ấy không có giới hạn, nó ắt hẳn  phải làm khiếp đảm rồi cuối 
cùng chiến thắng những kẻ nào muốn áp đặt  ách nô lệ lên đồng loại của 
họ. Vì trong lời của Isaiah:” Người ban sức  mạnh cho ai mệt mỏi, kẻ 
kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng. . .  Nhưng những người cậy 
trông Ðức Chúa thì được thêm sức mạnh; như thể  chim bằng, họ tung cánh;
 Họ chạy hoài mà không mỏi mệt…” (1)
Đúng,
 hãy thay đổi thế giới của ta.  Thomas Paine, một trong những vị Cha Lập
 Quốc, nói: ” Bằng sức mạnh  trong lòng của mình chúng ta có khả năng 
bắt đầu thể giới lại từ đầu.”  Chúng ta có thể thực hiện được điều này, 
chung sức làm những gì không  một nhà thờ nào có thể tự mình làm được.
Nguồn:Thư viện Ronald Reagan
Trần Quốc Việt (danlambao) trích dịch
No comments:
Post a Comment