Mệnh
đề thứ nhất tương đối dễ hiểu và dễ thấy. Tuy khái niệm “dân chủ” đã ra
đời ở Hy Lạp cách đây đã 2500 năm, nhưng, thứ nhất, đó chỉ là dạng phôi
thai của dân chủ với nhiều hạn chế nhất định; và thứ hai, cái dạng phôi
thai ấy đã bị bóp chết một cách tức tưởi suốt cả hai ngàn năm sau đó,
trong suốt thời kỳ trung cổ và Trung Đại, khi mọi quyền lực đều nằm hẳn
trong tay của giới tu sĩ hoặc giới quý tộc. Hình thức dân chủ mà chúng
ta đang đề cập chỉ mới xuất hiện từ hơn một trăm năm nay, và càng ngày
càng hoàn thiện dần.
Mệnh
đề thứ hai cũng rõ: Mọi nền dân chủ đều ra đời sau những cuộc tranh đấu
dai dẳng, có khi còn đẫm máu. Dân chủ không phải là món quà cho không
biếu không của ai cả. Đó là thứ mà người ta phải giành giật và đánh đổi
bằng cả xương máu của chính mình.
Tuy nhiên, trong bài này, tôi chỉ muốn tập trung vào mệnh đề thứ ba: Dân chủ là điều người ta phải học tập.
Trước
hết, cần lưu ý: dân chủ không phải chỉ là vấn đề cơ chế. Không phải cứ
có bầu cử, có Quốc Hội, có luật pháp, có truyền thông, dù là truyền
thông tự do, là có dân chủ. Bên cạnh cơ chế, có khi còn quan trọng hơn
cơ chế, là con người. Dù cơ chế có hoàn hảo đến mấy nhưng thiếu những
con người có ý thức dân chủ thì cái cơ chế ấy cũng sẽ bị vô hiệu hóa và
không sớm thì muộn thế nào cũng bị sụp đổ. Lý do là: một trong những
điều kiện quan trọng của cơ chế dân chủ là sự tham gia của dân chúng.
Tham gia bằng nhiều cách và với nhiều mức độ khác nhau, từ việc bầu cử
đến việc ứng cử, từ việc góp ý đến việc sinh hoạt, v.v… Thiếu ý thức dân
chủ, những sự tham gia ấy nhất định sẽ bị hạn chế và có nguy cơ bị lệch
hướng: thay vì phát huy dân chủ, chúng lại củng cố độc tài.
Nhưng
ý thức dân chủ không phải là thứ bẩm sinh. Nó không được sinh ra. Nó
phải được thụ đắc. Thụ đắc trong hai môi trường chính: giáo dục và xã
hội.
Trong
giáo dục, ngoài kiến thức, hai mục tiêu quan trọng cần được nhấn mạnh
là việc đào luyện cho học sinh và sinh viên khả năng suy nghĩ một cách
độc lập và sáng tạo. Thiếu hai khả năng ấy, người ta chỉ là những con
vẹt, thậm chí, những công cụ. Sự độc lập phải được hiểu là độc lập từ
chính thầy cô giáo, từ sách giáo khoa, và xa hơn nhưng cũng thiết yếu
hơn, độc lập từ các giáo điều. Khi xã hội còn nặng tư tưởng giáo điều,
cứ mở miệng ra là “Tử viết” hoặc “Marx nói”, “Lênin nói” hay “Bác Hồ
nói”, trẻ em, và từ đó, dân chúng không thể có sự độc lập trong tư duy
được. Mà đã không có độc lập thì không thể sáng tạo. Nền tảng của độc
lập và sáng tạo, do đó, là sự tin tưởng vào sự thật và sự tự tin là
chính mình, bằng những nỗ lực riêng của mình, có thể tiếp cận được sự
thật ấy. Có được niềm tin tưởng và sự tự tin ấy, người ta mới có thể
hành xử như một con người tự do. Có hành xử như những con người tự do,
người ta mới có dân chủ.
Nhưng
nhà trường không, chưa đủ. Ý thức dân chủ còn cần phải được đào luyện
trong môi trường xã hội nữa. Những gì được học trong nhà trường cần phải
được thực tập ngay trong đời sống hàng ngày, ở đó, người ta được thoát
ra khỏi áp lực của tập quán và giáo điều và được có quyền phát biểu
những ý kiến riêng của mình dù chúng đi ngược lại với đám đông và với
quyền lực. Việc hành xử như một con người tự do – điều kiện của dân chủ –
do đó, chỉ có thể thực hiện được trong môi trường tự do.
Nhận
thức được tầm quan trọng của giáo dục và xã hội trong việc đào luyện ý
thức cũng như thói quen dân chủ sẽ dẫn đến hệ luận này: Để xây dựng một
nền dân chủ tại Việt Nam, người ta phải bắt đầu, trước hết, từ hai
điểm: giáo dục và xã hội. Khi giáo dục và xã hội chưa thay đổi, sự thay
đổi về cơ cấu quyền lực, nếu có, không có gì bảo đảm sẽ dẫn đến dân chủ
cả. Có khi đó chỉ là thay thế một hệ thống độc tài này bằng một hệ thống
độc tài khác.
Nhưng
nhìn cả hai phương diện giáo dục và xã hội ở Việt Nam, liên quan đến
vấn đề dân chủ, chúng ta không thể không bi quan. Nền giáo dục Việt Nam,
cho đến nay, sau bao nhiêu lời hứa hẹn cải cách, vẫn không hề thay đổi
theo chiều hướng phát huy tinh thần độc lập và sáng tạo. Học sinh vẫn
phải nhồi nhét kiến thức để trả bài. Thầy cô giáo vẫn tự đóng vai trò
trung tâm phân phối kiến thức. Hệ thống thi cử vẫn dựa trên việc kiểm
tra ký ức. Việc nhồi nhét ấy dẫn đến hệ quả khác: sự giả dối. Trẻ thì
giả dối trong cách học tủ và học vẹt. Lớn thì giả dối trong việc mua bán
bằng giả và bằng dỏm. Khi giả dối lên ngôi, mọi bảng giá trị, từ truyền
thống đến hiện đại, đều bị đảo lộn. Không có nền dân chủ nào có thể
được xây dựng trên những sự đảo lộn như vậy cả.
Sinh
hoạt xã hội Việt Nam hiện nay cũng không phải là mảnh đất tốt để nuôi
dưỡng dân chủ. Luật pháp không rõ ràng, để sống còn, người ta phải mánh
mung. Xin trường học cho con cái: mánh mung. Xin việc làm: mánh mung. Để
tăng lương hoặc tăng chức: mánh mung. Ở đâu cũng có và cũng cần có mánh
mung cả. Thói mánh mung ấy, một mặt, giết chết luật pháp, mặt khác,
giết chết cả niềm hy vọng vào dân chủ.
Để
thay đổi môi trường xã hội như thế, người ta không chỉ cần củng cố hệ
thống pháp luật như một số người đã nói; người ta cần phải, quan trọng
và khẩn thiết hơn, xây dựng cho được một xã hội dân sự lành mạnh.
Nhưng vấn đề xã hội dân sự là một vấn đề rộng lớn và phức tạp. Chúng ta sẽ bàn sau.
Theo blog Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
No comments:
Post a Comment