Saturday, July 16, 2011

Đánh cuộc Trung Quốc tăng trưởng lệch lạc

Nouriel Roubini -"...việc bội thực đầu tư hiện thời sẽ giảm lạm phát cho kinh tế nội địa và toàn cầu. Nhưng một khi việc gia tăng đầu tư cố định không thực hiện được nữa - rất có thể xảy ra sau 2013 – Trung Quốc sẽ đi vào suy thoái trầm trọng..."


London – Gần đây tôi đi hai chuyến sang Trung Quốc khi chính quyền của họ đề xuất Kế hoạch Ngũ Niên lần thứ 12 để cân bằng trở lại mô hình tăng trưởng dài hạn của quốc gia. Những chuyến viếng thăm này cho tôi xác quyết quan điểm là có một mâu thuẫn tiềm tàng gây bất ổn giữa những thành quả kinh tế ngắn hạn và trung hạn.

Kinh tế của Trung Quốc hiện nay đang lên cơn sốt, nhưng, với thời gian, việc bội thực đầu tư hiện thời sẽ giảm lạm phát cho kinh tế nội địa và toàn cầu. Nhưng một khi việc gia tăng đầu tư cố định không thực hiện được nữa - rất có thể xảy ra sau 2013 – Trung Quốc sẽ đi vào suy thoái trầm trọng. Thay vì chú tâm đến việc hạ cánh an toàn ngày hôm nay, các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc nên lo ngại về bức tường gạch mà tăng trưởng kinh tế đụng phải vào nửa phần thứ hai của kế hoạch ngũ niên.

Tuy có những lời lẽ hùng hồn ca tụng Kế hoạch Ngũ niên mới này – kế hoạch này, giống như kế hoạch trước đây, có múc đích thúc đẩy và phân phối mức tiêu thụ GDP – con đường gặp ít gập ghềnh nhất là tình trạng bất động. Những chi tiết của kế hoạch ngũ niên mói cho thấy họ vẫn trông cậy vào đầu tư, bao gồm việc xây cất nhà ở công cộng, để hỗ trợ cho sự tăng trưởng mà không chú ý đến việc tăng giá mau chóng đồng tiền, chuyển ngân sách đáng kể đến các căn hộ, thuế má và/hoặc tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), cởi trói hệ thống đăng ký hộ khẩu (hukou), hoặc nới lỏng việc xiết chặt tài chánh.

Trung Quốc đã tăng trưởng trong những thập niện vùa qua dựa trên việc công nghệ hóa xuất khẩu và một đồng tiền yếu, điều này khiến cho tỷ lệ tiết kiệm của các tổ hợp và các căn hộ lên cao và lệ thuộc nhiều vào xuất khẩu ròng và đầu tư cố định (hạ tầng cơ sở, địa ốc, và năng lực kỹ nghệ dành cho khu vực nhập khẩu cạnh tranh và xuất khẩu). Khi xuất khẩu ròng suy sụp vào năm 2008-2009 từ 11% GDP xuống 5%, cấp lãnh đạo Trung Quốc phản ứng bằng cách gia tăng hơn nữa vào đầu tư cố định GDP từ 42% lên đến 47%.

Do đó, Trung Quốc đã không bị suy thoái trầm trọng như trường hợp của Nhật Bản, Đức và các nước châu Á khác đang trổi dậy vào năm 2009 – chỉ vì đầu tư cố định đã được thổi phồng. Và cổ phần GDP đầu tư cố định cũng đã gia tăng hơn nữa vào những năm 2010 và 2011, lên đến gần 50%.

Vấn đề là đương nhiên không có quốc gia nào có thể sản xuất đủ để tái đầu tư 50% GDP vào một kho dự trữ vốn mới mà không phải đương đầu với nạn bội xuất và vấn đề hãi hùng của khoản vay không năng xuất. Trung Quốc tràn đầy những đầu tư thái quá vào vốn thực thụ, hạ tầng cơ sở và bất động sản. Đối với một du khách, điều này quá hiển nhiên vì họ thấy những phi trường và tàu hỏa cao tốc thật bóng bảy nhưng bên trong trống rỗng không người (đường xe hỏa cao tốc sẽ làm giảm nhu cầu trên 45 phi trường dự định xây cất), xa lộ không biết đi về đâu, cả ngàn cao ốc mới khổng lồ của chính quyền trung ương và địa phương, những thành phố ma, những lò luyện nhôm còn mới nguyên phải đóng cửa để tránh giá cả thị trường suy sụp.

Cao ốc tráng lệ không có người ở

Đầu tư vào bất động sản thương mại và cư trú cao cấp xem ra thái quá, mức độ sản xuất xe hơi đã vượt lên cả trên mức tiêu thụ dù đã tăng vọt gần đây, và bội xuất về thép, xi-măng, và những lãnh vực công nghệ khác cũng gia tăng không kém. Trong ngắn hạn, sự tăng vọt đầu tư sẽ gây nên lạm phát, vì tính chất thu hút tài nguyên cao độ của sự tăng trưởng. Nhưng bội xuất sẽ chắc chắn dẫn đến áp lực giảm phát, khởi sự với lãnh vực công nghiệp và địa ốc.

Cuối cùng, rất có thể là sau năm 2013, Trung Quốc sẽ hạ cánh nặng nề. Tất cả những giai đoạn lịch sử đầu tư thái quá – kể cả vùng Nam Á vào thập niên 1990 – chấm dứt trong khủng hoảng tài chánh và/hoặc một thời gian dài tăng trưởng chậm chạp. Để tránh số phần này, Trung Quốc có nhu cầu phải tiết kiệm ít đi, giảm đầu tưu cố định, chắm dứt tức khắc việc xuất khẩu dùng như cổ phần của GDP, và thúc đẩy mức phân phối tiêu thu.

Nhưng cái kẹt ở đây là người Trung Hoa tiết kiệm quá sức và tiêu thụ rất ít và sự kiện này đã trở thành cấu trúc xã hội. Họ sẽ phải mất hai mươi năm cải cách để thay đổi thói quen khuyến khích đầu tư bội trội.

Những lời giải thích cố hữu về tỷ lệ tiết kiệm cáo (thiếu hệ thống an sinh xã hội, dich vụ công cộng giới hạn, dân số già nua, ngành tài chánh cho người tiêu thụ không đủ cung ứng, vân vân) chỉ là một phần của bức tranh tạp lục. Người tiêu thụ ở Trung Hoa lục địa không có khuynh hướng tiết kiệm nhiều hơn người Trung Hoa ở Hồng Kông, ở Tân Gia Ba và Đài Loan, tất cẩ đều tiết kiệm vào khỏang 30% lợi tức của họ. Điểm khác biệt nổi bật là cổ phần GDP chia đồng đêu cho căn hộ thấp dưới 50%, khiến cho họ không còn bao nhiêu để tiêu thụ.

Đã có nhiều kế hoạch của chính quyền Trung Hoa dẫn đến việc chuyển nhượng lợi tức ào ạt từ các căn hộ yếu kém về mặt chính trị sang những công ty có thế lực chính trị lớn. Một đồng tiền thấp kém làm giảm mãi lực của các căn hộ vì nó khiến cho hàng nhập khẩu đắt lên và do đó bảo về những Doanh Nghiệp Nhà Nước (DNNN) cạnh tranh nhập khẩu và nâng cao lợi nhuận cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

Tỷ lệ lãi thấp trong các trương mục tiết kiệm và tỷ lệ vay lãi thấp cho các xi nhiệp và các nhà khai thác kinh doanh có nghĩa là tiết kiệm ào ạt của khu căn hộ nhận trở lại tiền tiết kiệm với tỷ lệ âm, trong khi đó lãi thực thụ vay của các Doanh Nghiệp Nhà Nước cũng là âm. Điều này khuyến khích việc bội đầu tư và dẫn đến việc tái phân phối lợi tức khổng lồ của các căn hộ cho các DNNN, mà phần đông sẽ lỗ lã nếu họ phải vay ở tỷ lệ lãi đã được cân bằng của thị trường. Ngoài ra, đàn áp lao động đã khiến cho lương bổng người công nhân gia tăng chậm hơn mức độ sản xuất.

Để bớt sức đè nén trên lợi tức của các căn hộ, Trung Hoa cần phải thay đổi nhanh chóng tỷ lệ hối đoái, cỏi trói tỷ lệ vay lãi và nâng cao lương bổng mạnh mẽ hơn. Quan trọng hơn nữa là Trung Hoa hoặc cần phải tư nhân hóa các DNNN, để tiền lãi của họ trở thành lợi tức cho các căn hộ, hoặc đánh thuế tiền lãi ở tỷ lệ cao hơn và chuyển những khoản tài chánh này đến các căn hộ. Thay vì vậy, họ để cho tiền tiết kiệm – tiền lương bị khấu trừ - của lãnh vực xí nghiệp, phần lớn là DNNN, đạp lên đầu tiền tiết kiệm của các căn hộ và nhận thêm 25% GDP nữa.

Nhưng tăng lượng lợi tức cho khu vực căn hộ có thể gây nên bùng nổ lớn vì nó có thể làm cho một số lớn DNNN, các xí nghiệp chuyên xuất khẩu và các chính quyền tỉnh rơi vào phá sản, tất cả những thực thể này đều có năng lực chính trị mạnh mẽ. Kết quả là Trung Hoa sẽ đầu tư thêm với Kế hoạch Ngũ niên này.

Tiếp tục con đường tăng trưởng dựa theo đầu tư sẽ thúc đấy đến cùng cực năng xuất bội trội tại các cơ xưởng, địa ốc và hạ tầng cơ sở và dó đó sẽ nhanh chóng làm giảm sức mạnh kinh tế đang tới một khi tăng trưởng đầu tưu cố định không thể thực hiện được nữa. Từ đây cho đến ngày trao quyền lãnh đạo vào những năm 2012 và 2013, các nhà hoạch định chính sách của Trung Hoa có thể tiếp tưc giữ tỷ lệ tăng trưởng cao, nhưng phải trả một gía rất đắt trong tương lai.

Nouriel Roubini
Nguồn: Project-Syndicate
Trọng Khiêm dịch

Ông Nouriel Roubini là Chủ Tịch tổ chức Roubini Global Economics (www.roubini.com), giáo sư về Kinh Tế tại Stern School of Business tại NYU và là đồng tác giả sách Crisis Economics, sách bìa mỏng sẽ xuất bản vào tháng này.


 http://ethongluan.org/index.php/anh-cuc-trung-quc-tng-trng-lch-lc-nouriel-roubini.html

No comments:

Post a Comment