Gần đây, có tin Jane Fonda sẽ được Tổng thống Obama “vinh
danh” khiến giới cựu quân nhân Mỹ lại có dịp bày tỏ sự phẫn nộ của họ
đối với kẻ bị họ lên án là “phản quốc” (traitor). Sự phẫn nộ này đã kéo dài hơn 40 năm qua, từ khi cuộc Chiến tranh Việt Nam ở vào giai đoạn ác liệt nhất.
Khi
ấy, Jane Fonda, một cô đào điện ảnh chuyên đóng những vai nhục thể ở
Hollywood đã trở thành minh tinh trong phong trào được mệnh danh là
“phản chiến”, chống việc Mỹ can thiệp vào cuộc chiến tại Việt Nam, nhưng
thực sự là tiếp tay cho Cộng sản Hà-nội đánh chiếm miền Nam VN.
Cùng
với chồng lúc ấy là Tom Hayden, Jane Fonda không chỉ khuấy động, làm
mưa làm gió trên “mặt trận hậu phương” tại Mỹ, cô ta còn tới đất địch,
sang tận Hà-nội để công khai ủng hộ đối phương, chống lại tổ quốc, đâm
vào cạnh sườn những người lính Mỹ đang chiến đấu tại Việt Nam.
Fonda
không chỉ kêu gọi hoà bình, hay phất cờ “giải phóng”, hay rước ảnh
“Uncle Hô” trên đường phố Washington D.C.. Ngày 21.11.1970, cô ta tới
Trường Đại Học Michigan để nói với 2,000 sinh viên tại đây như sau: “Nếu
các bạn hiểu chủ nghĩa cộng sản là gì, các bạn sẽ hy vọng, các bạn sẽ
quỳ gối cầu nguyện để một ngày nào đó chúng ta sẽ trở thành con người
cộng sản” (If you understood what communism was, you would hope, you would pray on your knees that we would some day become communist).
Sau đó, tại Trường Đại Học Duke ở North Carolina, cô ta lặp lại những
điều đã nói ở Michgan, và thêm: “Tôi, một người theo chủ nghĩa xã hội,
nghĩ rằng chúng ta nên cố gắng tiến tới một xã hội xã-hội chủ-nghĩa,
trên đường tiến tới chủ nghĩa cộng sản.”
Với
đầu óc như vậy, dù đang là một triệu phú nhờ đóng phim nhục thể và kinh
doanh tại California, Fonda đã sang Hà-nội vào tháng 7 năm 1972 để công
khai đứng vào hàng ngũ với các đồng chí tại Việt Nam. Trong dịp này
Fonda đã chụp một tấm ảnh “lịch sử”, “hồ hởi” cười toe toét bên cạnh các
binh lính CS Bắc Việt và khẩu cao xạ phòng không hướng lên trời sẵn
sàng bắn hạ phi cơ Mỹ. Với tấm hình này, Fonda đã trở thành “hoàng hậu”
của phong trào phản chiến tại Mỹ, và cũng bị giới quân nhân Mỹ gọi là kẻ
phản quốc, là “Hanoi Jane”. Nhưng chưa hết, cũng trong chuyến sang Bắc
Việt nói trên, Fonda đã ghi âm những bài phát thanh để CS Hà-nội dùng
làm vũ khí tuyên truyền nhắm vào quân nhân Mỹ, trong đó có những đoạn
như sau:
“Tôi
muốn công khai buộc tội Nixon là một tên Hitler loại mới với những tội
ác đang bị phanh phui. Tôi muốn công khai tố cáo rằng trong khi gây ra
cuộc chiến tranh xâm lược tại Việt Nam, hắn đã phản bội tất cả mọi điều
nhân dân Mỹ yêu chuộng. Thảm kịch là của Hoa Kỳ chứ không phải của nhân
dân Việt Nam, vì nhân dân Việt Nam sẽ sớm thu hồi độc lập và tự do…”
Và:
“Với những quân nhân Mỹ đang phục vụ trên các hàng không mẫu hạm tại
vùng Vịnh Bắc Việt, những người gắn bom vào các phi cơ nên biết rằng
những vũ khí ấy là bất hợp pháp. Và việc sử dụng những quả bom ấy hay
dung túng việc dùng những quả bom ấy, là phạm tội ác chiến tranh.”
Và:
“Tôi hiểu vì sao người Việt Nam chiến đấu chống lại cuộc xâm lấn của
người da trắng kỳ thị. Tôi biết những điều đế quốc Hoa Kỳ đã làm trên
đất nước chúng tôi cho nên tôi biết cái gì đang nằm trong kho để đưa tới
bất cứ quốc gia nào trong thế giới thứ ba có thể mang sự bất hạnh là
rơi vào tay một nước như Hoa kỳ và trở thành một thuộc địa…”
Vì
những hành động phản quốc trắng trợn như trên mà Jane Fonda đã bị một
số tù binh Mỹ đang bị giam tại Bắc Việt lúc ấy từ chối gặp mặt dù bị VC
đánh đập dã man, trong đó có Trung tá John McCain. Theo Ông McCain, chỉ
có chừng 8 tù binh Mỹ bằng lòng gặp Fonda và những người trong phái đoàn
phản chiến của cô ta như Ramsey Clark, Tom Hayden giúp VC dùng để lừa
bịp dư luận quốc tế.
Sau
khi Chiến tranh Việt Nam chấm dứt, với hàng triệu “thuyền nhân” chạy
trốn hoà bình và những trại tù cải tạo trên khắp nước Việt Nam, một số
khuôn mặt “phản chiến” trước kia đã tỉnh ngộ, nhưng Jane Fonda thì
không.
Đôi
lần Fonda có lên tiếng “cáo lỗi” nhưng chỉ là những lời “chung chung”
mà giới cựu quân nhân Mỹ cho rằng “chưa đủ”. Năm 1988, nhân một cuộc
phỏng vấn của Barbara Walter trong Chương trình 20/20, Fonda đã chỉ “cáo
lỗi” (apologize) với những người đã bị tổn thương vì những hành động “không suy nghĩ” (thoughtless) và “bất cẩn” (careless) của cô ta lúc tuổi trẻ. Năm 1999, Jane Fonda được tạp chí Ladies Homes Journal “bình
bầu” là một trong “100 Phụ nữ của Thế kỷ” (100 Women of the Century),
và trước làn sóng phản đối của công luận, đặc biệt là giới cựu quân
nhân, “Hanoi Jane” cũng chỉ lặp lại lời “cáo lỗi” trống rỗng như trên về
tấm ảnh “lịch sử” mà cô ta nói là “một việc kinh khủng nhất tôi đã có
thể làm” (It was the most horrible thing I could possibly have done),
và không nhắc gì đến những hành động phản quốc khác, như những bài
tuyên truyền cho cộng sản, những cuộc tiếp xúc với tù binh Mỹ để CSBV
dùng lừa bịp thế giới…
Năm
2005, Jane Fonda xuất bản cuốn hồi ký “My Life So Far” và đi vòng nước
Mỹ để ra mắt, quảng cáo, ký tên, bán sách. Tại Kansas City, một cựu
chiến binh tên Michael Smith đã xếp hàng chờ trong 90 phút để phun nước
thuốc lá nhai trong miệng vào mặt “Hanoi Jane”
.
Nếu
một ngày đẹp trời nào đó, Jane Fonda được TT Obama “vinh danh”, người
ta sẽ lại được chứng kiến cựu chiến binh Mỹ hỏi tội bà ta (nay 73 tuổi)
nặng nề hơn.
So
với những hành động của Jane Fonda trong thời Chiến tranh Việt Nam,
Thiền sư Nhất Hạnh cũng có những điểm tương đồng để đáng được gọi là một
kẻ phản bội không sám hối dù có những cái khác nhau: Fonda nhỏ hơn Nhất
Hạnh 11 tuổi và lập nghiệp bằng nghề đóng phim nhục cảm ở Hollywood,
còn Nhất Hạnh thì chọn cửa Phật làm con đường tiến thân.
Nhờ
khoác áo cà-sa và sống ở miền Nam Việt Nam, Sư Thích Nhất Hạnh được
miễn dịch ở nhà tu học, trong lúc những thanh niên đồng trang lứa hàng
hàng lớp lớp tòng quân lên đường bảo vệ non song, chống lại cuộc xâm
lăng từ miền Bắc, có người đã nằm xuống, có người đã trở thành thương
phế binh.
Sau
khi tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa Sài-Gòn, Nhất Hạnh được học bổng sang
Mỹ du học. Năm 1964, ông trở về Việt Nam, dạy tại Đại Học Vạn Hạnh một
thời gian rồi lại xuất ngoại năm 1966 trong lúc Chiến tranh Việt Nam leo
thang ác liệt. Là một người có học và trưởng thành tại miền Nam VN, Nhà
sư Nhất Hạnh phải biết nguồn gốc của cuộc chiến tranh ấy và thực trạng
đất nước cùng những khổ đau và khát vọng của dân tộc Việt Nam.
Thế
nhưng, không biết do những móc nối từ trong nước hay tiêm nhiễm tư
tưởng phản chiến tại các trường đại học bên Mỹ, Ông Nhất Hạnh bắt đầu
viết sách, viết báo, rao giảng những luận điệu không khác gì Jane Fonda.
Cũng đổ tội Mỹ xâm lược Việt Nam và phạm nhiều tội ác, cũng vu cáo chế
độ VNCH hiếu chiến, và khen “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” yêu nước và
yêu hoà bình. Nhờ chiếc áo cà-sa, nhờ nói và viết tiếng Anh trôi chảy,
Ông Nhất Hạnh đã đâm những nhát dao hiểm độc vào quân dân miền Nam Việt
Nam, vào chế độ đã ưu đãi, đã nâng đỡ ông để có ngày hôm nay.
Không
chỉ diễn thuyết, viết báo, viết sách tại Mỹ để chống Mỹ và chống VNCH,
ngày 2.6.1966, Ông Nhất Hạnh còn ra trước Quốc Hội Hoa Kỳ điều trần, nói
rằng Mỹ và chế độ VNCH tay sai của Mỹ là nguyên nhân gây ra chiến tranh
và những thảm họa tại Việt Nam, và rằng Mỹ đừng can thiệp vào VN nữa
thì đất nước xa xôi ấy sẽ có hòa bình.
Khi
“hoà bình” đã có tại Việt Nam với chiến xa Liên-Sô tiến vào Dinh Độc
Lập ở Sài-Gòn, với hàng triệu người bỏ nước ra đi tị nạn, hàng trăm ngàn
người khác bị đày ải trong các trại cải tạo, tôn giáo bị đàn áp, trong
đó có Phật giáo, thì Thiền sư Nhất Hạnh không một lời phản đối, lập ra
Làng Hồng, rồi đổi ra Làng Mai, ở Pháp và vẫn tiếp tục rao giảng hoà
bình theo kiểu cộng sản, và kết tội “đế quốc Mỹ”.
Ngày
11.9.2001, khủng bố Hồi giáo tấn công nước Mỹ, chỉ hai tuần sau, Ông
Nhất Hạnh được các nhóm thiên tả ở Mỹ đưa sang New York để rao giảng hoà
bình. Tại một nơi chỉ cách “ground zero” vài khu phố, nơi thân xác gần
3,000 người vô tội bị chôn vùi cùng với tất cả những gì của hai toà nhà
chọc trời Trung tâm Mậu Dịch Thế Giới sụp đổ còn âm ỉ cháy, Ông Thích
Nhất Hạnh đã lên tiếng tố cáo tội ác của người Mỹ, trong đó có câu
chuyện về vụ được gọi là “phi cơ Mỹ bỏ bom hủy diệt thành phố Bến Tre
với 300,000 thường dân” trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968. Bài
rao giảng này cũng được thuê đăng với giá quảng cáo 50,000 Mỹ kim trên
tờ New York Times.
Bài
rao giảng này cùng với câu chuyện bịa đặt trắng trợn đã gặp phản ứng
mạnh tại những cộng đồng người Việt ở Mỹ khiến Nhóm Giao Điểm phải in
một cuốn sách để bênh vực thầy, cuốn “Bản Chất Các Phản Ứng về Bài Giảng
của H.T. Nhất Hạnh”, nhưng chỉ làm nổi rõ vai trò của Ông Nhất Hạnh
trong các nhóm khuynh tả ở phương tây. Trong bài “Vạch Trần âm Mưu Đánh
Phá Phật Giáo ở Nam Cali”, Ông Trần Chung Ngọc viết: “Khi đó Thầy Nhất
Hạnh ở đâu? Thầy ở ngoại quốc vì chính quyền miền Nam không cho Thầy về
nước từ 1966. Thầy không thể là nhân chứng trong vụ bỏ bom Bến Tre. Vậy
Thầy nghe tin vụ Bến Tre ở đâu, chắc chắn phải ở ngoại quốc. Nếu nguồn
tin này sai thì đó có phải là lỗi của Thầy hay không?”
Vào
thời điểm 2001 thì “vụ bỏ bom Bến Tre” xảy ra đã trên 30 năm mà chưa đủ
để Thầy Nhất Hạnh, một người rất thông thái, lại có thừa phương tiện để
kiểm chứng và biết sự thật về tin ấy, trước khi rao giảng và công khai
kết tội nước Mỹ trước thế giới?
Nhưng
cũng trong tập sách ấy, một người khác, Ông Hoàng Nguyên Nhuận, lại cam
kết: “Chuyện phải san bằng Bến Tre thành bình địa để cứu Bến Tre trong
Tết Mậu Thân là chuyện có thật.” Vì nó do “một thiếu tá Mỹ” nói ra và do
Phóng viên Peter Arnett của AP “độc quyền khui ra”.
Chuyện
ném bom san bằng cả một thành phố với 300,000 dân cư mà không ai hay
biết, phải nhờ một thiếu tá Mỹ “tiết lộ” để Phóng viên Peter Arnett “độc
quyền khui ra” với Nhà sư Nhất Hạnh! Còn Peter Arnett thì ai theo dõi
báo chí đều biết là một nhà báo thiên tả nổi tiếng trong thời Chiến
tranh Việt Nam chuyên bịa đặt những tin có hại cho quân đội Mỹ, về sau
đã cấu kết với một số người khác dựng đứng ra câu chuyện “Thung Lũng Tử
Thần” trên CNN, vu cáo Biệt kích Mỹ dùng hơi độc giết tù binh tại Nam
Lào. Trước phản ứng mạnh của quân đội Mỹ với những bằng chứng hiển
nhiên, CNN đã phải hủy bỏ bộ phim “tài liệu” láo khoét, cáo lỗi với quân
đội Mỹ và sa thải các thủ phạm, trong đó có Peter Arnett.
Tới
đây có lẽ không cần phải nói về liên hệ giữa Peter Arnett và Nhất Hạnh,
cũng như về giá trị những tin tức do hai người này đưa ra. Nhưng Thiền
sư Nhất Hạnh thì không bao giờ nói một lời “cáo lỗi” nào về sự phản bội
của ông và về những tin tức bịa đặt do ông tung ra.
Trái lại, như để khẳng định lập trường thiên tả của mình, cuối năm 2005
Thiền sư Nhất Hạnh đã dẫn 100 tăng sinh từ Làng Mai về Việt Nam và được
nhà nước cộng sản đón tiếp rình rang, với tán vàng che đầu, với hoa
thơm rải trên lối đi, và ông đã tới nhiêu nơi để lập trai đàn, cầu siêu
giải oan cho những linh hồn chưa siêu thoát trong chiến tranh, đồng thời
lập ra Tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng để cho các tăng sinh từ hải ngoại về
tu tập. Nay thì dường như Tu viện Bát Nhã đã bị bọn “xã hội đen” đột
nhập cướp phá, và các tăng sinh phải bỏ của chạy lấy người.
Tin
mới nhất về Thiền sư Nhất Hạnh là ngày 1.3.2011 vừa qua ông đã được ban
biên tập của Nhà Xuất Bản Watkins Books ở London chọn vào danh sách
“100 nhân vật đương thời còn sống và có ảnh hưởng về tâm linh lớn nhất
trên thế giới”, cũng như Jane Fonda đã được chọn là một trong “100 Phụ
nữ của Thế kỷ”.
Ngày
nào ông Obama “vinh danh” Jane Fonda thì đừng quên Thích Nhất Hạnh vì
hai người có những cái giống nhau: gian dối và phản bội.
Sơn Tùng
4.6.2011
No comments:
Post a Comment