Mạnh Kim - Trung Quốc
chưa bao giờ thật sự là một cường quốc, trong mọi lĩnh vực, theo nghĩa
một nước lớn có đủ tư cách chững chạc và đáng kính trọng. Và bây giờ
điều này một lần nữa đã thể hiện qua hành động côn đồ của Trung Quốc
“khủng bố” tàu Bình Minh 02 của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ngay trong
lãnh hải Việt Nam ngày 26-5-2011 như một phép thử với nhiều ý nghĩa và
mục tiêu.
Chỉ hạng “mục trung vô nhân” (trong mắt không có người) mới
làm điều xằng bậy như vậy và chỉ một tư duy hoang tưởng cực độ về sức
mạnh mình mới nghĩ ra cái “phép thử” quái đản dẫn đến nhiều ảnh hưởng
tiêu cực như thế!
Từ cái “lưỡi bò”…
Hành
động ngổ ngáo của Trung Quốc không chỉ thể hiện một chiến lược ngu xuẩn
mà còn cho thấy Trung Quốc láo lếu khi họ luôn mồm nói đến khái niệm
“hòa bình quật khởi” (和平崛起 – peaceful rising, phát triển trên tinh thần
hòa bình). Hầu hết ý kiến bình luận cho rằng chính sách du côn của Trung
Quốc tăng dần tại Biển Đông, không phải “thâm tàng nhược hư” (giấu thật
kín) mà hoàn toàn công khai, là xuất phát từ chiến lược thu vén nguồn
năng lượng cho con đường phát triển hiện đại hóa. Điều đó chỉ đúng một
phần. Điều quan trọng hơn và cốt lõi của vấn đề nằm ở chỗ, nó thể hiện
cái tinh thần “trước sau như một” về luận thuyết “đường lưỡi bò” (để
biến Biển Đông thành cái ao nhà và độc chiếm quyền khai thác) mà trong
thực tế chưa nước nào trên thế giới công nhận. Như đã biết, Trung Quốc
đã “quốc tế hóa” luận thuyết “đường lưỡi bò” vài năm gần đây. Tháng
5-2009, Trung Quốc lần đầu tiên gửi kèm tấm bản đồ “đường lưỡi bò” trong
lá thư đệ trình Ủy ban LHQ về ranh giới thềm lục địa (CLCS) với nội
dung phản đối cách tính thềm lục địa của Việt Nam và Malaysia. Ý tưởng
“độc đáo” về cái “đường lưỡi bò” xuất hiện năm 1948 khi Trung Hoa Dân
Quốc đưa ra một bản đồ với 11 vạch uốn éo tạo thành hình chữ U bao bọc
gần như trọn khu vực Biển Đông. Sau khi tuyên bố độc lập năm 1949, Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa tiếp tục sử dụng bản đồ trên, với sự “giản lược”
bớt hai vạch (còn 9 vạch) sau năm 1953. Từ đó, cái “hình minh họa” với
“đường lưỡi bò” 9 vạch bắt đầu được xem là bản đồ chính thức của Trung
Quốc trong tất cả cuộc tranh luận về phân định biên giới lãnh hải tại
Biển Đông với các nước khu vực. Lý lẽ tối giản của “đường lưỡi bò” là
những gì nằm bên trong nó, từ các hòn đảo đến “đảo liền kề” và “vùng
biển liên quan”, đương nhiên phải thuộc Trung Quốc, dù những thuật từ
trên chưa bao giờ được sử dụng trong Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS)!
Xét
về mặt luật, luận điểm “đường lưỡi bò” hoàn toàn không có giá trị pháp
lý quốc tế. Lori F. Damrosch, giáo sư Công pháp quốc tế thuộc Đại học
Columbia, đã vạch ra rằng những đảo nhỏ mà Trung Quốc đưa ra như là một
phần của biên giới thực chất chỉ là “những cụm đá nhỏ lốm đốm”, và chúng
không đủ lớn để có hải phận riêng. Và nhận định về “đường lưỡi bò”, một
trong những chuyên gia luật hàng hải hàng đầu châu Âu, giáo sư Erik
Franckx thuộc Vrie Universiteit Brussel (Bỉ), kết luận (trong một cuộc
hội thảo về Biển Đông tại TP. HCM) rằng, tấm bản đồ “đường lưỡi bò” hoàn
toàn “thiếu cơ sở thuyết phục” và do đó nó sẽ “gây ra nhiều phiền toái
nếu tiếp tục được xem như là một phần trong chính sách của Trung Quốc
lẫn của Đài Loan” (1). Sử gia tên tuổi Stein Tønnesson (Giám đốc Viện
Nghiên cứu hòa bình Oslo từ 2001-2009) thậm chí nhận định: “Trung Quốc
lâu nay cứ đề cập đến việc các nước láng giềng nên “gạt bỏ những bất
đồng và cùng hợp tác khai thác nguồn tài nguyên” nhưng điều thật sự cần
gạt bỏ chính là cái bản đồ hình chữ U của Tưởng Giới Thạch; và những
tranh cãi chủ quyền quanh quần đảo Trường Sa có lẽ cũng cần nên gạt
quách đi”. Tất nhiên chẳng dễ gì Trung Quốc từ bỏ. Nó là tham vọng. Nó
là tư tưởng bá quyền. Nó là thể hiện cụ thể của cái gọi là “sức mạnh
đang lên”. Và bởi nó còn là lá bùa hộ mạng cho lý lẽ biện biệt của cái
chiến lược “hạch tâm lợi ích” (lợi ích cốt lõi) – một khái niệm mà Ủy
viên Quốc vụ viện Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc từng đề cập với hai viên chức
ngoại giao Mỹ vào tháng 3-2010 khi nhắc đến Biển Đông. Và trong cuộc
gặp Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, họ Đới một lần nữa lại dùng từ “lợi
ích cốt lõi” khi nói đến các vấn đề tranh chấp tại Biển Đông (2).
Đến cái “hạch tâm lợi ích” (核心利益)
Điều
quan trọng đặc biệt đáng chú ý nhất của ý nghĩa khái niệm “hạch tâm lợi
ích” là gì? Đó là những vấn đề mà Trung Quốc có thể “xử” bằng quân sự!
Cho đến nay, chỉ có ba “đại đề” chính trị lớn là Đài Loan, Tây Tạng và
Tân Cương là được đưa lên vị trí ngang tầm chính sách chiến lược, như là
“lợi ích cốt lõi” quốc gia, mà khi cần, Trung Quốc có thể “động dao
động thớt”. Bởi yếu tố cực kỳ nhạy cảm của luận điểm “lợi ích cốt lõi”
đối với vấn đề Biển Đông nên trong các phát biểu chính thức, Trung Quốc,
đến nay, vẫn chưa dám khẳng định Biển Đông nằm trong danh sách những
vấn đề “lợi ích cốt lõi” (3). Tuy nhiên, sự e dè có tính toán của Trung
Quốc (trong việc chính thức đưa Biển Đông vào phạm trù nhóm “lợi ích cốt
lõi”) cũng chẳng ngăn họ, mặt khác, song song, bày tỏ gián tiếp việc
củng cố luận điểm trên, chẳng hạn các tuyên bố lải nhải việc “Trung Quốc
có chủ quyền không thể tranh cãi” về quần đảo Trường Sa; hoặc qua những
cuộc kích động dư luận trong nước (tờ Nhân dân nhật báo tổ chức thực
hiện cuộc thăm dò ý kiến độc giả Trung Quốc rằng, liệu bây giờ có cần
thiết “nâng cấp” vấn đề Biển Đông lên tầm mức “lợi ích cốt lõi” hay
không và 97% trong gần 4.300 phản hồi nói rằng “NÊN”, tính đến tháng
1-2011).
Năm 2009, Đới Bỉnh Quốc bắt
đầu mở rộng khái niệm “lợi ích cốt lõi” với ba ý chính: 1/ Duy trì hệ
thống chính trị; 2/ Bảo vệ các luận điểm liên quan chủ quyền; và 3/ Cổ
súy phát triển kinh tế. Xét theo đó, Biển Đông bây giờ với Trung Quốc
hẳn nhiên là vấn đề “lợi ích cốt lõi” rồi! Không trở thành “lợi ích cốt
lõi” sao được, khi Trung Quốc một mặt tăng cường phát triển “quốc phòng
biển”; một mặt tăng tốc kế hoạch đầu tư khai thác nguồn tài nguyên Biển
Đông, ngay tại những khu vực tranh chấp. Năm 2011, Trung Quốc dự kiến
nâng tổng số lực lượng hải giám lên hơn 10.000 quân; chuẩn bị mua 36 tàu
tuần tra trong 5 năm tới, bổ sung cho hạm đội hải giám hiện gồm 300
tàu… Phải nói rằng lực lượng hải giám Trung Quốc vài năm gần đây đã làm
việc cực kỳ “hiệu quả”. Năm 2010, theo nguồn (4), với hơn 1.000 chuyến
bay và hơn 13.300 chuyến tuần dương, hải giám Trung Quốc đã bắt 1.380 vụ
liên quan “hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp”, thu số tiền phạt 757
triệu tệ. Hẳn nhiên không cần nhắc lại chi tiết cũng biết trong số những
người bị bắt phạt, có không ít ngư dân Việt Nam đang hoạt động hợp pháp
trong lãnh hải Việt Nam!… Một cách thận trọng, xin không dám xúc phạm
lực lượng hải giám Trung Quốc mà nói rằng họ là những tên “du đãng biển”
thuộc loại đầu bò đầu bướu được trả lương để làm “bảo kê” cho hàng trăm
hoặc hàng ngàn tàu ngư dân Trung Quốc ngang nhiên vào “biển bạn” để
cướp cá và đánh hại “ngư dân bạn” (đặc biệt Việt Nam), nhưng có thể
khẳng định rằng sự “tả xung hữu đột” của lực lượng này đã giúp Trung
Quốc dễ dàng triển khai các dự án đầu tư khai thác dầu tại các vùng còn
nằm trong vòng tranh chấp. Trong không ít trường hợp, họ đã chĩa súng
vào gáy bắt người khác phải ra đi để dọn chỗ cho gọn…
Hạ
tuần tháng 5-2011, Trung Quốc bắt đầu tung ra dàn khoan khổng lồ
CNOOC981 trị giá hơn 922 triệu USD (thuộc Trung Quốc hải dương thạch du
tổng công ty – CNOOC) có thể khoan sâu 3.000m và “trục” dầu ở độ sâu
12.000m. CNOOC981 được xem là giải pháp “giúp” Trung Quốc “không còn” bị
các nước láng giềng “ăn cắp” 20 triệu tấn dầu mỗi năm – theo cách nói
của Tống Ân Lai, Chủ tịch Hội đồng cố vấn CNOOC.
Không
trở thành “lợi ích cốt lõi” sao được, khi Biển Đông đang được xem là
“vịnh Ba Tư thứ hai” với 50 tỉ tấn dầu thô và hơn 20 ngàn tỉ m3 khí (6).
Không
trở thành “lợi ích cốt lõi” sao được, khi năm 2010, CNOOC cho biết họ
dự kiến đầu tư 200 tỉ tệ (30 tỉ USD) trong 20 năm tới cho các dự án khai
thác dầu khí đốt, trong một kế hoạch qui mô được miêu tả là có thể
“biến cả khu vực Biển Đông thành một Đại Khánh mới của Trung Quốc” (mỏ
dầu lớn nhất Trung Quốc tại Hắc Long Giang, cung cấp 21% nhu cầu nội địa
nước này) – theo cách nói của tác giả Zou Le trên Global Times (báo
Trung Quốc). “Biến cả Biển Đông thành một mỏ dầu” – câu nói này đã thể
hiện “ý chí” Trung Quốc trong việc kiểm soát độc quyền Biển Đông trên
tinh thần “lợi ích cốt lõi” của quan điểm chính trị “đường lưỡi bò”. Bởi
vì, “việc khai thác dầu và khí đốt ngoài khơi là điều cốt yếu giải
quyết tình huống thiếu nguồn dầu thô mà Trung Quốc đang đối mặt” – như
nhận định của Trương Đại Vĩ, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chiến
lược nguồn dầu khí thuộc Bộ Tài nguyên Đất đai (Trung Quốc Nhân dân Cộng
hòa quốc thổ tư nguyên bộ). Thống kê của Cơ quan Tổng quản hải quan
(Hải quan tổng thự) cho biết, năm 2010, Trung Quốc nhập 239 triệu tấn
dầu, tăng 17,5% so với năm trước. Sự lệ thuộc nguồn dầu nhập khẩu của
Trung Quốc tăng từ 52% năm 2009 lên 55% năm 2010.
Không
trở thành “lợi ích cốt lõi” sao được, khi Mi Chấn Ngọc, nguyên sĩ quan
Học viện Khoa học Quân sự Trung Quốc, từng phát biểu rằng: “Trung Quốc
phải phát triển sức mạnh hải quân để bảo vệ và nhất định không nhân
nhượng dù chỉ một tấc trong tổng số ba triệu kilomet đường lãnh hải.
Trung Quốc phải xây dựng cho được một Vạn Lý Trường Thành trên biển”.
Không
trở thành “lợi ích cốt lõi” sao được, khi tháng 4-2011, Trung Quốc một
lần nữa lại nhắc lại rằng họ có toàn quyền kiểm soát khoảng 80% Biển
Đông cùng tất cả quần đảo lẫn rặng san hô nằm trong “hình minh họa” của
“đường lưỡi bò” (7)…
Một phép thử – nhưng thử gì và thử ai?
Ngày
28-5-2011, đề cập việc tàu hải giám Trung Quốc làm “nhiệm vụ”… cắt cáp
tàu Bình Minh 02 thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ngay trong lãnh hải
Việt Nam ngày 26-5-2011, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Khương
Du phát biểu: “Những gì mà các cơ quan liên quan của Trung Quốc đã làm
là các hoạt động giám sát và thực thi luật pháp hoàn toàn bình thường ở
khu vực biển thuộc thẩm quyền tài phán của Trung Quốc”, và khẳng định
thêm: “Trung Quốc đã cam kết bảo vệ hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
Chúng tôi sẵn sàng làm việc với các bên có liên quan để tìm kiếm một
giải pháp cho các tranh chấp liên quan”. Mong sao việc “bảo vệ hòa bình
và ổn định ở Biển Đông” là một chính sách được thực thi thật sự với thái
độ thành thật chứ không phải là trò đùa của một phép thử về mặt chính
trị. Ngay cả với những người ít hiểu biết nhất về chính trị ngoại giao,
cũng có thể thấy rằng trò nắn gân “cắt cáp” Việt Nam của Trung Quốc là
một động thái phát ra vài tín hiệu: nó muốn nhắc lại và tái khẳng định
quan điểm “đường lưỡi bò”; nó muốn thăm dò phản ứng các nước khu vực như
thế nào; nó muốn thử nghe người Mỹ nói gì; và đặc biệt, nó muốn chọc
giận và khiêu khích để tạo ra nguy cơ dẫn đến xung đột quân sự và từ đó
có cớ dùng tổng vũ lực xâm chiếm, thôn tính và tất nhiên áp đặt chủ
quyền cho toàn bộ những phần quần đảo tranh chấp với Việt Nam! Tất nhiên
Việt Nam chẳng dại rơi vào cái bẫy này; và kẻ dại nhất (sẽ) chính là kẻ
“gắp lửa bỏ tay người”, bởi Đông Nam Á đang ngày càng cẩn trọng đề
phòng với “hắn”. Vô hình trung, “hắn” bị cô lập, bằng sự nhích lại của
các nước láng giềng, để đương đầu với kẻ thù chung. Và dại nhất trong
tất cả những cái dại là “hắn” đã gián tiếp mời Mỹ tham gia sân chơi Thái
Bình Dương vốn đang bốc nhiệt hầm hập cùng sự bành trướng “không biết
thân biết phận” trong tư duy hoang tưởng cực độ về sức mạnh của “hắn”.
Chẳng phải mới, vào giữa năm 2010 bà Hillary Clinton đã chẳng nói rằng
“Chúng tôi đã trở lại” (châu Á-Thái Bình Dương) rồi đấy sao! Mỹ há chẳng
lẽ khoanh tay ngồi yên nhìn “hắn” tự tung tự tác được à!?
M. K.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Chú thích:
(1)
China’s changing role in the South China Sea: Reflections on a scholars
workshop, giáo sư Stein Tønnesson, chuyên san Harvard Asia Quarterly
(2) China actions meant as test, Hillary Clinton says, Greg Sheridan, The Australian (9-11-2010)
(3) China Hedges Over Whether South China Sea Is a ‘Core Interest’ Worth War, Edward Wong, New York Times (30-3-2011
(4) China Beefs up Maritime Patrol Force, Grace Ng, The Straits Times (3-5-2011)
(5) Mega oil rig changes game, Li Qian, Global Times (24-5-2011)
(6) Oil bonanza in South China Sea, Zou Le, Global Times (19-4-2011)
(7) Beijing’s troubling South China Sea policy, Michael Richardson, Japan Times (28-4-2011)
No comments:
Post a Comment