Chu chi Nam - Gần đây
có một số biến cố ở biển Đông Nam Á, như sự việc tàu Trung cộng cắt dây
thăm dò dầu khí của tàu Việt Nam, hải quân Phi luật tân có bắt một số
ngư phủ Việt Nam, từ đó có người đưa ra nhiều giả thuyết: nào là sẽ có
đại chiến ở biển Đông Nam Á, nào là Hoa Kỳ và Trung cộng tìm cách chia
đôi vùng ảnh hưởng của biển này.
Giả thuyết thứ nhất xin hẹn ở một bài sau, trong khuôn khổ bài này, chúng ta hãy cùng nhau xét giả thuyết thứ nhì.
Hoa kỳ và Trung cộng tìm cách chia đôi ảnh hưởng của vùng biển Đông Nam Á:
Đây
là quan niệm của môt số người bị chóang bởi sự tăng trưởng về tổng sản
lượng của Trung cộng. Nhưng cũng là quan điểm của trường phái chiến lược
ngoại giao, được mệnh danh là “thực tế, thực tiễn” của Hoa Kỳ.
Thực
vậy, nhất là gần đây, Quỹ Tiền Tệ Quốc tế ( FMI), thời của ông
Dominique Strauss Kahn làm Giám đốc, có ra một bản thống kê và đồng thời
kèm theo những lời tiên đoán, theo đó vào năm 2016, thì Trung cộng bắt
kịp Hoa Kỳ về tổng sản lượng quốc gia, để rồi sẽ qua mặt sau đó.
Hiện
tổng sản lượng quốc gia của Trung cộng là 5 700 tỷ $, của Hoa kỳ là
15 000 $, Sản lượng tính theo đầu người của Trung cộng là gần 5 000 $,
đó là tính theo giá tiền tệ, nhưng nếu tính theo khả năng mua bán (
pouvoir d’achat), thì là gần 7 000 $, nhân với số dân là 1,3 tỷ người,
thì tổng sản lượng thực thụ của Trung cộng hiện nay là gần 10 000 tỷ $.
Và như vậy theo tiên đoán của Quỹ tiền tệ, với mức tăng trưởng kinh tế
khoảng 8 hay 9%, theo như trước đây, thì Trung Cộng sẽ bắt kịp Hoa Kỳ
vào năm 2016, để rồi sẽ vượt Hoa kỳ.
Từ đó, nhiều người đưa ra nhiều giả thuyết, kèm theo nhiều lời báo động.
Như
gần đây, 2 nhà học giả, ông Peter Navarro của Đại học Irvine (
Californie) và chuyên gia về Trung Cộng, ông Grey Autry, có cho ra quyển
sách Death by China ( deathbychina.com), xin tạm dịch là Chết bởi Trung
Cộng, theo đó:
“ Hòa bình, thịnh
vượng, và sức khỏe của thế giới đang đối diện với mối đe dọa lớn nhất kể
từ thời Đức Quốc xã tới nay: một Trung Cộng, cầm quyền bởi độc đảng
cộng sản, trở nên giàu có, hung mạnh, nhưng thối nát và tàn bạo, được
kích thích bởi một chủ nghĩa quốc gia cực đoan.”
Điều
này, ngược dòng lịch sử, nếu chúng ta so sánh với thời Đức Quốc Xã của
Hitler thì chúng ta thấy có rất nhiều điểm tương đồng.
Vì
vậy, những lời cảnh báo trên không phải là không có lý.Tuy nhiên so
sánh nước Đức thời phát xít Hitler với Trung cộng ngày hôm nay cũng có
nhiều điểm khác biệt: Nước Đức thời đó có một hạ tầng cơ sở kinh tế và
nhất là kỹ nghệ rất mạnh, không thua bất cứ nước nào trên thế giới. Ngày
hôm nay Trung cộng chưa ớ mức độ này. Thêm vào đó, nước Đức là một nước
lục địa, có thể gửi quân gây hấn những nước chung quanh. Trung cộng chỉ
có thể gây hấn những nước lục địa như Việt Nam, Bắc Hàn, Miến Điện,
nhưng 3 nước này là tay em của Trung Cộng; còn dùng hải quân để xâm lấn
những nước như Nhật bản, Phi luật Tân, Nam dương, thì hải quân Trung
cộng không đủ khả năng. Đấy là chưa nói mỗi thời một khác. Thế giới
không thể làm ngơ.
Thêm vào đó, ngay
tại Hoa Kỳ, những trí thức và chánh khách theo trường phái Chiến lược
ngoại giao thực tế, thực tiễn, mà một trong những người tiêu biểu là ông
Kissinger, cho rằng sự lớn mạnh về đủ mọi phương diện của Trung Cộng,
bắt buộc chúng ta phải có cái nhìn thực tế về ngoại giao, theo đúng luận
án tiến sĩ của ông, về Sự quân bằng lực lượng giữa những cường quốc vào
thời sau cuộc Cách mạng Pháp 1789. Theo ông, Âu châu và thế giới có
được một thời gian hòa bình khoảng 100 năm, tính tới ngày bùng nổ Thế
chiến thứ Nhất, sau sự sụp đổ của đế quốc Pháp, thời Napoléon đệ Nhất,
là nhờ có sự quân bằng lực lượng giữa những cường quốc, đặc biệt là Đế
quốc Anh, Đế quốc Nga, Đế quốc Đức và Đế quốc Áo Hung.
Ngày
hôm nay, theo trường phái này, thì cũng nên có một chính sách quân bằng
lực lương giữa những cường quốc. Đặc biệt là ở châu Á Thái Bình dương,
không ai chối cãi rằng Trung Cộng là một cường quốc trong vùng, phải
công nhận sức mạnh của nước này và chia vùng ảnh hưởng với họ. Từ đó có
người đưa ra giả thuyết Hoa Kỳ và Trung Cộng chia đôi ảnh hưởng vùng
biển Đông Nam Á.
Có phải thật như vậy hay không?
Quan
niệm cho rằng Hoa kỳ không dại gì chia vùng ãnh hưởng ở biển Đông Nam
Á, vì Hoa kỳ đủ tài trí, sự kiện để đánh giá thực lực của Trung Cộng. Và
đây cũng có thể nói là đường lối ngoại giao của bà đương kim Ngoại
trưởng Hillary Clinton và Tổng Thống Barak Obama.
Thực
ra quan niệm tiên đoán tương lai của một cường quốc, mà chỉ dựa trên
yếu tố tổng sản lượng quốc gia, thì có nhiều thiếu xót. Chúng ta thấy,
cuối đời nhà Thanh vào cuối thế kỷ thứ 19, tổng sản lượng của Tàu còn
bằng 1/5 thế giới, hơn Nhật Bản, thế mà nhà Thanh bị thua với Nhật trong
trận chiến Đài loan năm 1890 và trận chiến Mãn châu năm 1895. Từ đó,
dùng tổng sản lượng để suy đoán ra sức mạnh về quân sự và chính trị thì
không chính xác lắm.
Đây là quan niệm
của Paul Kennedy, cũng là một nhà kinh tế Hoa Kỳ, trong quyển sách nổi
tiếng của ông vào những năm cuối của thập niên 80. Quyển sách mang tựa
đề The Rise and Fall of the great Powers, Sự Hưng Vong của những đại
Cường quốc, với đề tựa phụ Economic Change and military Conflic from
1500 to 2000, Thay đổi kinh tế và tranh chấp quân sự từ năm 1500 tới năm
2000, nói về thay đổi kinh tế và tranh chấp quân sự trong vòng 500 năm
trên thế giới, từ đông sang tây, với một công trình nghiên cứu rất công
phu và những con số hiếm có và chính xác; mặc dầu chính xác, nhưng đó
chỉ là những con số vô tri, vô giác; lịch sử con người không phải là
những con số, mà là cái nhìn, cách đánh giá về những con số đó. Quyển
sách được coi là bán chạy nhất thế giới ( The international Bestseller),
vào thời đó và đã có ảnh hưởng thực sự về đường lối ngoại giao của Hoa
Kỳ và Liên sô lúc bấy giờ.
Theo Paul
Kennedy, sự hưng vong của một cường quốc là do tổng sản lượng quốc gia.
Nếu tổng sản lương quốc gia, mà ông ví như nền móng của một cường quốc.
Nếu tổng sản lượng quốc gia tăng đều trong một thời gian dài, thì người
ta thấy sự hình thành một đế quốc, có nghĩa là có sự ảnh hưởng mạnh trên
chính trường quốc tế, không những về kinh tế, mà cả về quân sự và chính
trị. Tuy nhiên, nếu sự chi tiêu về quân sự quá lớn, đè nặng xuống hạ
tầng kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế không bắt kịp sự tăng trưởng về chi
tiêu, nhất là quân sự, thì dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc, đó chính là
đề tựa Sự Hưng Vong của những Cường quốc. Với cái nhìn này, ông đã khảo
sát tất cả những đế quốc về sự hưng vong của nó từ thế kỷ thứ 16 (1500)
tới đầu thế kỷ 21 (2000). Và ông có lời cảnh cáo 2 cường quốc lớn lúc
bấy giờ là Hoa Kỳ và Liên Sô, mà theo ông, nếu cứ chạy đua vũ trang, thì
sẽ đi đến sự sụp đổ. Chính vì lẽ đó mà chính quyền Reagan, vào nhiệm kỳ
đầu ( 1980-1984) chủ trương chạy đua vũ trang; nhưng vào nhiệm kỳ 2
(1984-1988) đã chủ trương ngược lại hạn chế vũ trang, ngay cả việc tài
giảm binh bị. Không những chính quyền Reagan, mà ngay cả chính quyền
Liên Sô của Gorbatchev cũng vậy. Quyển sách không những bán chạy nhất,
mà còn ảnh hưởng mạnh trên thực tế là vậy.
Chúng
ta vẫn theo sách của Paul Kennedy để xét về những tiên đoán tương lai
của ông. Ở đây tôi dựa vào quyển bằng tiếng Anh, do nhà xuất bản Random
house, xuất bản lần thứ tư, năm 1989, thì ngay ngoài bìa, có hình quả
địa cầu, có 5 người tiêu biểu cho 5 đại cường quốc tranh giành quả cầu:
Đó là Hoa Kỳ, Anh, Liên Sô, Nhật và Trung Cộng. Ngày hôm nay chúng ta
thấy rõ, là quyển sách xuất bản lần đầu là vào năm 1988, tất nhiên trước
đó ông cũng đã viết nhiều bài báo về đề tài này. Tuy nhiên ông vẫn
không nhìn ra sự sụp đổ của đế quốc Liên Sô. Ông coi thường vai trò của
Đức và Pháp, mà ngày hôm nay, không những Liên sô sụp đổ, mà vai trò của
Âu châu, trong đó có Đức và Pháp, giữ một vai trò quan trọng trên thế
giới.
Ở điểm này, trái với nhiều
người tiên đoán sự trổi dậy của Trung Cộng về mọi mặt, có người tiên
đoán sự sụp đổ của Trung Cộng giống như đế quốc Liên Sô. Về phần tôi,
tôi đồng ý quan điểm sau.
Măc dầu có
tăng trưởng kinh tế; nhưng sự tăng trưởng này đã tạo ra rất nhiều mâu
thuẫn và bất công trong xã hội Trung Cộng, bắt nguồn từ 4 chính sách chủ
trương bởi chính phủ: 1) Kìm lương người thợ ở mức tối thiểu; 2) Kìm
giá đồng nhân dân tệ luôn luôn rẻ hơn từ 15 đến 20% so với đồng đô la,
trên thị trường; 3) Hy sinh nông thôn cho thành thị; 4) Hy sinh môi
trường.
Thật vậy, mặc dầu đảng cộng
sản Trung cộng và Việt Nam rêu rao là đại diện cho giới công nông, nhưng
2 giới này bị hy sinh và bóc lột nhiều nhất. Chính chính phủ kìm giá
lương ở mức độ thấp nhất để thu hút đầu tư ngoại quốc và giữ cho giá
thành hàng hóa rẻ, để dễ xuất cảng. Thêm vào đó họ còn kìm giá đồng Nhân
dân tệ luôn luôn rẻ hơn từ 15 đến 20% theo giá thị trường, vì vậy hàng
hóa Trung cộng rẻ là nhờ 2 yếu tố này. Trong khi đó thì nông dân cũng
không sung sướng gì, những vùng nông thôn rộng lớn bị hy sinh cho chính
sách kỹ nghệ hóa một cách rừng rú, làm cho 80% sông ngòi bị ô nhiễm,
người nông dân không có nước sạch để uống, nhiễm nhiều bệnh tật. Cả trăm
triệu người nông dân bỏ quê đi ra thành thị kiếm việc sống một cuộc
sống vất vả, bị bóc lột bởi không những ông tư bản trắng từ nước ngoài,
mà ngay cả những ông tư bản đỏ, mới trở nên giầu có, nhờ tham nhũng hối
lộ, tịch thu đất của dân, để bán cho ngoại quốc.
Nếu
chúng ta nhìn vào sự thoái trào của Liên sô trước khi sụp đổ, và ngày
hôm nay chúng ta nhìn vào sự thoái trào của Trung cộng, thì chúng ta
thấy có những điểm căn bản giống nhau, mặc dầu hoàn cảnh lịch sử và thời
gian khác biệt.
Ông Brejnev, người
đã hùng hổ, tin tưởng rằng cộng sản sẽ toàn thắng khắp nơi trên thế
giới, khi mới lên nắm quyền vào năm 1964, trước khi chết vào năm 1983,
phải than lên rằng:
“ Xã hội chủ
nghĩa gì mà 1/3 xe chạy ngoài đường là ăn cắp săng của công, 1/3 bằng
cấp là bằng cấp giả, công chức đến sở làm việc là đến để có mặt, sau đó
thì đi coi hát hay đi làm việc riêng.”
Xã
hội Trung Cộng và Việt Nam hiện nay cũng tham nhũng, hối lộ từ trên
xuống dưới, bằng cấp giả cũng lan tràn, sức sản xuất lao động của công
chức quá thấp so với những nước chung quanh.
Thêm
vào đó có chính sách đánh những nước cộng sản còn lại, đặc biệt là
Trung Cộng. Ở điểm này, tôi không nghĩ rằng Hoa Kỳ muốn bắt tay với
Trung Cộng để chia sẻ ảnh hưởng vùng châu Á Thái bình dương, đặc biệt là
muốn chia sẽ ảnh hưởng vùng biển Đông Nam Á, mặc dầu quan điểm này có
người cho rằng đó là quan điểm thực tế, thực tiễn. Theo tôi, trái lại:
Đó mới chính là quan điểm không thực tế, thực tiễn.
Tại sao ?
Chúng ta chỉ cần nhìn tình hình xẩy ra ở Tunisie, Ai cập và những nước Trung Đông, Phi châu hiện nay, thì chúng ta rõ.
Theo
một số người trước đây cho rằng cái nhìn « thực tế, thực tiễn » là Hoa
Kỳ phải ủng hộ những chính quyền thân mình, như Ben Ali ở Tunisie, Hosni
Moubarak ở Ai cập, những chính quyền dù độc tài, nhưng có lợi cho Hoa
Kỳ.
Tuy nhiên, theo tôi, chính quyền
Obama, với bà Hillary Clinton là ngoại trưởng, họ có cái nhìn ngược lại.
Theo họ chính cái nhìn trên mới là không thực tế thực tiễn. Thực tế
thực tiễn, theo họ, đó là giúp dân đi đến chế độ tự do, dân chủ, nền
tảng hòa bình và trao đổi thương mại lâu dài trên thế giới, thay vì giúp
một cá nhân hay một gia tộc, một đảng, đi ngược lại trào lưu tiến bộ
của nhân loại và đi ngược lại lòng dân.
Theo
thiển ý và sự suy đoán của tôi, thì chính quyền Obama nhìn rõ và thực
tế, thực tiễn rằng nền kinh tế Trung cộng đang mang những điều bất lợi
cho kinh tế Hoa Kỳ : 1) Kìm giá nhân công rẻ đã đưa đến sự kiện những
hãng xưởng Hoa Kỳ sang đầu tư ở Trung Cộng, làm mất công ăn việc làm của
dân Hoa Kỳ ; 2) Cán cân thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung cộng bị thất
thâu nhiều thập niên nay. Sự kiện này phải chấm dứt, và thực tế, thực
tiễn, chính là để cứu nền kinh tế Hoa Kỳ, trước tiên. Chính vì vậy, mà
trước khi đi họp Hội Nghị Thượng Đỉnh G20 ớ Hán thành, năm ngoái, Obama
đã ra lệnh thoái khoán 600 tỷ $, để một phần giảm gánh nợ, một phần làm
hạ giá đồng $, so với những ngoại tệ khác, nhất là đối với đồng Nhân dân
tệ, để giảm bớt nhập cảng từ Trung Cộng, và đồng thời tố cáo Trung Cộng
sao chép trái phép, làm hàng giả, hàng không đủ tiêu chuẩn.
Trên
lãnh vực quân sự, chính quyền Obama đủ dữ kiện, thực tế, thực tiễn và
sáng suốt để nhận ra rằng, sức mạnh quân sự, nhất là về hải quân, của
Trung cộng không thấm tháp vào đâu cả, nếu so sánh với Hoa Kỳ, và ngay
cả với Nga Sô, Anh và Pháp. Nói như ông Reagan : « Sức mạnh quân sự của
Liên sô là chỉ để đàn áp dân, hù dọa những nước đàn em và láng giềng. »
Sức
mạnh quân sự của Trung Cộng ngày hôm nay cũng vậy. Vạ gì Hoa Kỳ phải
liên kết, để chia ảnh hưởng vùng Đông Nam Á. Thêm vào đó Hoa Kỳ đủ sáng
suốt để biết rằng ngay dù mình là đại cường quốc trên nhiều lãnh vực,
nhất là về hải quân ; nhưng vùng biển Thái Bình Dương, cũng không thể bị
khổng chế hóa, mà là một vùng phải quốc tế hóa. Nhưng trước khi đi đến
giải pháp này, thì Hoa kỳ còn chơi trò « Ngư ông thủ lợi « , để cho
những nước trong vùng tranh chấp trước, để có thể bán võ khí. Chúng ta
nên nhớ kinh tế Hoa Kỳ một phần phụ thuộc vào việc bán võ khí. Và để bán
được vũ khí thì cần phải có những tranh chấp.
Đây là việc Hoa Kỳ đã làm trong thời kỳ Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế Chiến và thời Chiến tranh Lạnh.
Lịch
sử nhiều khi lập lại : vì sự thoái trào của Trung cộng ngày hôm nay
cũng giống sự thoái trào của Liên sô trước đây ; và ta xét đường lối
chiến lược ngoại giao của Hoa Kỳ tấn công Trung Cộng cũng giống như
đường lối của Hoa Kỳ đối với Liên sô, trước đó. Giả thuyết chế độ cộng
sản Trung cộng sụp đổ có nhiều khả thế xẩy ra hơn là Trung cộng cùng với
Hoa Kỳ chia đôi vùng châu Á Thái bình dương và chia đôi biển Đông Nam
Á ; vì đây là một chế độ phản lòng dân, đi ngược lại trào lưu tiến bộ
của nhân loại, làm không hợp đạo, hành không hợp nghĩa.
Chính Ngô Khởi, một lý thuyết gia quân sự của Tàu, cách đây hơn 2 000 có viết :
«
Có 4 điều bất hòa : bất hòa trong nước thì không thể ra quân ; bất hòa
trong quân, thì không thể ra trận ; bất hòa trong trận, thì không thể
tiến chiến ; bất hòa trong chiến, thì không thể quyết thắng. »
Ông còn nói thêm :
« Nếu làm không hợp đạo, động không hợp nghĩa, thì ở lớn, ngồi sang, tai nạn tất cũng sẽ đến. »
Paris ngày 08/06/2011
Chu chi Nam
(1) Xin đọc thêm những bài về chiến lược Hoa kỳ và Trung cộng, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/
No comments:
Post a Comment