Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
Từ ba tuần nay, thị trường chứng khoán tại Việt Nam tuột giá liên tục sau khi đã mất giá kể từ đầu năm.
Vụ cổ phiếu rớt giá khiến các công ty chứng khoán lâm khủng hoảng, nhiều giới chức cao cấp bị thay thế hoặc thậm chí chủ tịch cũ đã lặn tăm sau khi tài sản công ty bị hụt hơn 100 tỷ, còn lớn hơn vốn sở hữu của công ty. Khi Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa thì ông gọi đó là nạn "gãy đòn bẩy".
Từ ba tuần nay, thị trường chứng khoán tại Việt Nam tuột giá liên tục sau khi đã mất giá kể từ đầu năm.
Vụ cổ phiếu rớt giá khiến các công ty chứng khoán lâm khủng hoảng, nhiều giới chức cao cấp bị thay thế hoặc thậm chí chủ tịch cũ đã lặn tăm sau khi tài sản công ty bị hụt hơn 100 tỷ, còn lớn hơn vốn sở hữu của công ty. Khi Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa thì ông gọi đó là nạn "gãy đòn bẩy".
"Đòn bẩy" là gì?
Vũ Hoàng: Xin
kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, thị trường chứng khoán Việt
Nam đang bị khủng hoảng nặng khi các cổ phiếu đều mất giá nặng từ ba
tuần nay. Nạn sụt giá ấy đã khởi sự từ đầu năm 2011 và bắt đầu gieo họa
cho nhiều công ty chứng khoán lẫn các tổ chức tín dụng đã cho giới đầu
tư vay tiền để kiếm lợi trong thị trường cổ phiếu. Vì vậy, chương trình
kỳ này xin đề nghị ông phân tích cho hiện tượng đó.
Nguyễn Xuân Nghĩa:
Tôi thiển nghĩ rằng ta đang gặp hiện tượng có thể gọi là "gãy đòn bẩy"
và chuyện đó không chỉ thu gọn trong thị trường chứng khoán tại Việt
Nam. Cho nên nhân dịp này chúng ta cùng tìm hiểu về hiện tượng gọi là
"đòn bảy", và tôi cố gắng từng bước trình bày cái chuyện rất phức tạp
này một cách thật nôm na dễ hiểu, chẳng biết như vậy có được không?
Vũ Hoàng: Xin đồng ý như vậy và mời ông trình bày cho thế nào là cái đòn bẩy và vì sao lại có nạn gẫy đòn bẩy.
Nguyễn Xuân Nghĩa:
Chúng ta đều biết "đòn bẩy" trong vật lý học là một khí cụ cứng rắn ta
dùng để chuyển động một vật nặng mà ít tốn sức. Trong lĩnh vực kinh tế
và kinh doanh, người ta lấy khái niệm đòn bẩy đó để nói đến việc mượn
sức người khác hầu đạt kết quả cao hơn thực lực. Tây phương có một ngạn
ngữ là câu nói của nhà văn Alexandre Dumas, đó là "kinh doanh là tiền
của người khác!" Nó ứng vào chuyện đòn bẩy này. Về định nghĩa, ta ưa nói
đến kinh tế "vi mô" và "vĩ mô" có vẻ uyên bác mà khó hiểu vì vậy có lẽ
ta nên tìm cách gọi đơn giản hơn. Một cá nhân hay đơn vị sản xuất như
doanh nghiệp mà tính toán về lời lỗ thì hãy tạm gọi đó là "kinh doanh"
thay vì "kinh tế vi mô" là kinh tế thuộc phạm vi nhỏ. Còn khuôn khổ tính
toán kinh tế cho cả nước thì được gọi là "kinh tế vĩ mô", tôi xin đề
nghị cứ gọi là tính toán "kinh tế", để phân biệt với tính toán "kinh
doanh". Như trong nhiều lĩnh vực khác của xã hội con người, cá nhân
trong kinh doanh hay quốc gia trong kinh tế đều nghĩ đến việc mượn sức,
là dùng đòn bẩy. Đòn bẩy thông dụng nhất mà không là duy nhất là đi vay
tiền.
Vũ Hoàng:
Nếu ta tạm áp dụng cách nhìn và cách gọi đó thì một quốc gia hay doanh
nghiệp và đều có thể mượn lực của đòn bẩy, nhưng việc mượn lực đó không
nhất thiết là đi vay, có phải như vậy không?
Nguyễn Xuân Nghĩa:Thưa
đúng thế vì nếu hiểu theo ý rộng thì ta giải thích được nhiều vấn đề
của vụ khủng hoảng vừa qua trên thế giới và chuyện khủng hoảng về cổ
phiếu tại Việt Nam. Trước hết, khi vay tiền theo lối "vặt mũi bỏ mồm",
là để tiêu thụ vì không có lợi tức, thì ta không có hiện tượng "đòn
bẩy", đấy không là tính toán kinh doanh, mà là một thảm kịch của đời
sống. Ta có thảm kịch đó tại Việt Nam vào dịp Tết nhất khi dân nghèo vay
tiền để ăn Tết và ra Giêng là è cổ trả nợ. Ta cũng thấy thảm kịch đó
tại Hoa Kỳ khi giới tiêu thụ vay tiền qua thẻ tín dụng để chi tiêu. Số
tín dụng tiêu thụ ấy có lúc lên tới hơn 2.600 tỷ đô la nên giờ này họ
phải dè xẻn để trả nợ. Vì dân Mỹ tiêu thụ ít hơn, tức là nhập khẩu ít
hơn, nên Hoa Kỳ mới gây khó khăn cho kinh tế thế giới. Ở đầu bên kia, ta
có Trung Quốc lại lấy xuất khẩu - chủ yếu là xuất khẩu qua Mỹ - làm đòn
bẩy kinh tế. Khi khủng hoảng bùng nổ năm 2008, Trung Quốc đạt xuất
siêu, là xuất nhiều hơn nhập khẩu, với Hoa Kỳ khoảng 270 tỷ đô la. Số
xuất siêu ấy bằng 6% Tổng sản lượng Trung Quốc. So với đà tăng trưởng là
10% thì ta thấy là nếu thiếu thị trường Mỹ, đà tăng trưởng của Trung
Quốc phải giảm mất 6%. Đó là chuyện trực tiếp. Nhưng về gián tiếp trhì
tình hình còn nguy hơn. Kết quả gián tiếp là có tăng trưởng nhờ xuất
khẩu, là đầu tư trực tiếp của Mỹ, là các dự án xây dựng để yểm trợ xuất
khẩu và lợi tức gia tăng cho công nhân hay cả lượng tín dụng ào ạt bơm
vào kinh tế nhờ dân chúng ký thác tiền vào ngân hàng, v.v.... Kể thêm
ngần ấy yếu tố phụ trội thì kinh tế Trung Quốc lệ thuộc nặng vào nước
Mỹ. Khi Hoa Kỳ không còn khả năng tiêu thụ và nhập khẩu như xưa, và
Chính quyền lại muốn nâng xuất khẩu mỗi năm thêm 15%, thì một đòn bẩy
kinh tế của Trung Quốc coi như không còn và xứ này bị vất vả nặng trong
mấy năm tới. Đấy là cách khác để thấy ra quy luật đòn bẩy, trước khi ta
nói đến cái đòn bẩy thông dụng nhất là đi vay trong kinh doanh.
Hạn chế rủi ro
AFP photo - Các nhà đầu tư chứng khoán tại sàn giao dịch chứng khoán ở New York trước tiếng chuông đóng cửa ngày
1 tháng 6 năm 2011. Chỉ số Dow Jones đóng cửa 279 điểm
Vũ Hoàng: Ông
trình bày như thế có nghĩa là trong kinh doanh của một cá nhân hay một
doanh nghiệp, ta có thể vay tiền như một cách dùng tiền bạc của người
khác kiếm lợi cho mình, có phải như vậy không?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Thưa
đúng thế và đấy là một trong nhiều nguyên do của vụ khủng hoảng tài
chính năm 2008. Trên nguyên tắc, khi ta đầu tư bằng tài sản riêng thì
mức doanh lợi bị hạn chế như dùng sức mình để lay một tảng đá. Nếu nghĩ
rằng triển vọng kiếm lời vẫn cao thì người ta đi vay để đạt mức lời lớn
hơn, y như ta dùng một đòn bẩy. Sau khi trừ đi khoản phí tổn đi vay, tức
là lãi suất, mà vẫn có lời thì người ta đi vay tiếp. Vấn đề ở đây là
khi đi vay để kiếm lời cao hơn thì doanh nghiệp cũng gặp rủi ro lớn hơn
mà vì lạc quan nên họ không tính ra. Muốn hạn chế rủi ro thì phải biết
là chỉ có thể vay được một lượng tiền nào đó tương xứng với số vốn của
mình mà thôi. Vụ khủng hoảng tài chính 2008 bùng nổ tại Mỹ là do các tập
đoàn đầu tư không chỉ kinh doanh bằng vốn riêng mà còn vay gấp bội so
với vốn riêng, như tập đoàn Lehman Brothers đã vay gấp hơn 30 lần số vốn
riêng. Khi doanh lợi sút giảm vì bong bóng đầu tư trên thị trường gia
cư bị bể năm 2006 thì họ hết trả được nợ và bị vỡ nợ. Vì họ lạc quan
giao dịch chồng chéo với nhau qua các kén nợ tín dụng gia cư, cứ chuyền
tay từ công ty này qua công ty khác, khi kén nợ trở thành nợ thối thì ta
có hiện tượng vỡ nợ dây chuyền và khủng hoảng, khiến Chính quyền phải
tung ra 700 tỷ đô la chuộc nợ để cấp cứu hệ thống ngân hàng. Bây giờ
Việt Nam cũng bị như vậy trên thị trường cổ phiếu mà chưa chắc Chính
quyền đã có khả năng cấp cứu.
Vũ Hoàng: Chúng ta đi vào phần cốt lõi của vụ khủng hoảng tại Việt Nam, theo ông nhìn thì cũng vì hiện tượng đòn bẩy tương tự?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Lấy
thí dụ là tôi có 100 tỷ vốn riêng để mua cổ phiếu kiếm lời khi nghĩ
rằng cổ phiếu sẽ lên giá. Nhưng vì lạc quan thiếu cơ sở, tôi còn vay
thêm 100 tỷ nữa, vị chi là có 200 tỷ để chơi stock, y như người ta bước
vào sòng bạc! Khi giá cổ phiếu mà sụt 20%, như đã thấy từ đầu năm nay,
thì tôi lãnh rủi ro gấp đôi, là mất 40% số tiền đánh bạc đó. Nếu lại
tính cả tiền lời đi vay ngân hàng đã quá 20% thì rõ ràng là tôi bị sạch
vốn và hết khả năng trả nợ! Khi hiện tượng này lan rộng thì không chỉ có
các công ty chứng khoán bị phá sản mà cả hệ thống ngân hàng bị vạ lây
vì không thu được nợ và tai họa kế tiếp sẽ là thị trường bất động sản.
Hiện tượng "gãy đòn bẩy"
Vũ Hoàng: Thưa ông, vì sao lại có hiện tượng sụt giá ào ạt như vậy?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Căn
bản thì cũng là sự hồ hởi sảng hay ảo giác của việc làm giàu! Trước hết
là sự lạc quan thiếu cơ sở từ năm 2007 với viễn ảnh Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới và thiên hạ sẽ đổ tiền vào thị trường Việt
Nam. Sự lạc quan ấy thiếu cơ sở khi ta thấy số "vốn hóa", tức là giá thị
trường của tổng số cổ phiếu của các doanh nghiệp được niêm yết trên sàn
giao dịch tại Sàigòn, đã lên tới 40% Tổng sản lượng Nội địa GDP. Sản
lượng chứ chưa nói đến doanh lợi hay cổ tức của các doanh nghiệp đó
không thể lên tới con sổ ảo như vậy! Rồi nhiều doanh nghiệp nhà nước, là
các đơn vị sản xuất kinh doanh bằng công quỹ của quốc gia, cũng ồ ạt
lập ra công ty chứng khoán để ăn theo.
|
Thế
rồi từ đỉnh cao vào tháng Ba năm 2007, chỉ số VN-Index đã ba lần lên
tới mức chặn là gần 1.200 điểm và cứ thế mà sụt tới mức nâng là 200 điểm
vào đầu năm 2009. Đấy cũng là khi tín dụng ngân hàng được bơm ào ạt để
kích thích kinh tế. Nhờ vậy mà ta thấy ra tác dụng đòn bẩy, là vay tiền
ngân hàng mua cổ phiếu, với một lượng giao dịch rất lớn. Nhờ được bơm
tín dụng, sức mua rất cao so với trước đây có tạo ra lực đẩy trong năm
2009 và một đợt nữa vào cuối năm 2010. Vậy mà vẫn không nâng chỉ số
VN-Index quá mức chặn là 520 điểm, rồi từ đó cứ tuột dần. Thị trường
chứng khoán tại Hà Nội còn bi đát hơn vậy. Trong khi ấy, nguy cơ lạm
phát bùng nổ khiến ngân hàng nâng lãi suất và vì cổ phiếu mất giá giới
đầu tư phải châm thêm vốn. Họ không có khả năng đó và tiến trình giải
chấp đồng loạt bắt đầu. Những tin khả quan hơn từ mấy ngày qua thật ra
không bền nếu ta nhìn vào lượng giao dịch vẫn còn thấp, tức là không có
lực đẩy!
Vũ Hoàng: Rồi đây tình hình sẽ ra sao khi các ngân hàng không đòi được nợ?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Trên
nguyên tắc, khi đi vay tiền chơi chứng khoán thì khách nợ phải có tài
sản đảm bảo, thí dụ như một bất động sản làm vật thế chấp. Thực tế có
thể không được chặt chẽ như vậy và ngân hàng có ôm lấy vật đảm bảo là cổ
phiếu thì tài sản đảm bảo đó bị sụt cùng giá cổ phiếu nên ngân hàng
lãnh họa và các doanh nghiệp nhà nước lập ra công ty chứng khoán phải
đóng cửa! Vì vậy, tôi e rằng nhiều người thiếu nợ sẽ phải bán nhà, hoặc
tài sản bị sai áp. Thị trường bất động sản không chỉ bị đóng băng mà nay
mai có thể cũng sụt giá và nhiều ngân hàng sẽ bị khủng hoảng vì mất nợ.
Đó là lý do mình nói đến hiện tượng "gãy đòn bẩy" là vay tiền đánh bạc
rồi bị lỗ làm ngân hàng hay các tổ chức tín dụng bị vỡ nợ! Trong hoàn
cảnh ngân sách bị bội chi quá nặng như hiện nay, chưa rõ là chính quyền
sẽ xử trí ra sao nếu tình trạng đó xảy ra. Chúng ta nên e ngại kịch bản
đó vì những gì đã thấy ở nhiều xứ khác, kể cả Hoa Kỳ là nơi có luật lệ
nghiêm ngặt, thông tin minh bạch và có các cơ chế thanh tra và kiểm
soát. Việt Nam chưa được như vậy và hồ sơ sổ sách lại không rõ ràng nên
hoạn nạn tới mức nào thì chưa ai biết.
Vũ Hoàng: Tức là ông đoán rằng một thành phần đông đảo các nhà đầu tư sẽ sạt nghiệp hay sao?
Nguyễn Xuân Nghĩa:
Tôi xin được nhắc tới một quy luật sơ đẳng về đầu tư là "chỉ dùng tài
sản dư dôi cho đầu tư" - chứ không thể lấy tiền chợ đi đánh bạc! Tức là
phải đầu tư với tâm lý cẩn trọng, là nếu có mất hết cả thì cũng không
ảnh hưởng tới sinh hoạt của gia đình. Vì vậy, nếu mà giới đầu tư, là
những người có tiền ở thành phố, mà hết sạch vốn thì họ phải chấp nhận
trong tinh thần "được ăn cả, ngã về không". Đấy là quy luật bình thường,
nhưng nguyên tắc thì như vậy chứ thực tế lại chưa được như vậy ở Việt
Nam. Giới đầu tư cò con thì mất vốn và con em trong gia đình đều bị ảnh
hưởng. Nhưng sự thể có khi còn tai hại hơn nếu khủng hoảng lan rộng qua
lĩnh vực ngân hàng. Với lạm phát đã vượt 20% và sản xuất sút giảm, nếu
ngân hàng mà sụp đổ, nhiều doanh nghiệp sẽ bị điêu đứng vì thiếu tín
dụng cho sản xuất. Việt Nam đang bị lạm phát và chưa giải quyết xong
khủng hoảng về ngoại hối thì lại lãnh thêm trận này, đâm ra chính là
thành phần nghèo khổ sẽ bị tai họa nặng nhất. Cho đến nay, sự lầm than
của dân nghèo chưa làm chế độ lung lay, nhưng khi những kẻ có tiền và có
quan hệ với đảng viên cán bộ nhà nước mà lại mất vốn vì gãy đòn bẩy thì
sự thể sẽ khác. Trong giả thuyết có xác suất cao, là họ mà gây áp lực
với nhà nước để cứu lấy tài sản riêng, thì Việt Nam sẽ lại áp dụng nhiều
phương thuốc đổ bệnh còn nguy ngập hơn!
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa.
No comments:
Post a Comment