Ðó là những châm ngôn rất
đáng theo. Nhưng đối với các dân tộc thì sao? Một quốc gia có thể coi
“mọi người như bạn” đối với một nước khác hay không?
Trong
việc bang giao, có một quy tắc đã được nhắc tới nhiều lần: Một quốc gia
không có kẻ thù và cũng không có bạn; giao thiệp với các nước khác chỉ
cần biết đến quyền lợi của mình mà thôi. Các quyền lợi được chia sẻ theo
những bản hiệp ước, sòng phẳng giống như các hợp đồng thương mại. Người
kinh doanh thương thuyết với nhau về quyền lợi, không cần phải yêu nhau
người ta mới ký các hợp đồng; những ai làm trái hợp đồng sẽ bị trừng
phạt. Việc bang giao nên làm như theo lối đó.
Trong
lịch sử nước ta, nước láng giềng lớn nhất là Trung Quốc. Nước Việt Nam
thường coi Trung Hoa là bạn hay là kẻ thù? Hầu như Tổ tiên chúng ta
không bao giờ chọn Trung Quốc làm bạn vàng; cũng không ai gọi họ là kẻ
thù vĩnh viễn. Lúc nào người Việt Nam cũng sẵn sàng cư xử với họ, như
bạn hoặc như thù, tùy theo hoàn cảnh. Bạn: Giống như các dân tộc Á Ðông
khác, người Việt qua bao đời vẫn học hỏi phương pháp trị quốc, tổ chức
giáo dục, và văn hóa Trung Hoa. Thù: người Việt không bao giờ quên đề
phòng quân phương Bắc xâm lăng.
Mỗi
lần đánh đuổi quân xâm lăng từ phương Bắc xong, các người lãnh đạo nước
Việt Nam đều xin “giảng hòa,” vì biết chiến tranh sẽ chỉ làm chết dân.
Không bao giờ người dân được nghe chính quyền gọi cả nước Trung Hoa là
kẻ thù của nước mình. Lý Thường Kiệt khi mang quân sang đánh chiếm các
vùng trên biên giới cũng không tuyên bố đi đánh một quốc gia láng giềng
để “cho nó một bài học,” mà lại nêu chính nghĩa là đem quân giúp người
dân phương Bắc hạch tội một chính quyền đang làm hại cho dân chúng của
họ. Bản Bình Ngô Ðại Cáo nêu danh quân địch là “Cuồng Minh tứ ngược,”
dùng tên hiệu nhà Minh, một chính quyền đang cai trị, chứ không gọi
chung họ là “quân Hán.” Vua Trần Nhân Tông sau khi thắng trận đã khiêm
tốn tự xưng là “vi thần” khi “dâng sớ” gửi tới vua nhà Nguyên. Lê Thái
Tổ không những đã “xin hòa” theo lối xưa mà còn xin bồi thường thiệt hại
nữa. Quang Trung thắng trận rồi, chịu thần phục và đưa một người giả
làm mình đi sang chào kính. Vua nhà Trần đã cấp thuyền bè, lương thực
cho tàn quân nhà Nguyên về nước. Lê Thái Tổ cũng vậy đối với quân Minh.
Chỉ có một thời chính quyền Việt Nam nhất thiết coi Trung Quốc là “nước
bạn” để dựa dẫm, là vào nửa cuối thế kỷ 19, khi nhà Nguyễn cố bám lấy
“thiên triều” cầu mong họ giúp chống lại quân Pháp, rồi không thành. Và
một lần nữa, từ giữa thế kỷ 20, khi chính quyền miền Bắc Việt Nam muốn
nhân dân phải coi Trung Quốc là nước bạn quý, là đàn anh vĩ đại của nước
mình; rồi sau đó có lúc lại coi họ là kẻ thù tuyệt đối, để mươi năm sau
thì đổi ngược lại. Những sai lầm vì dốt nát hay vì nông nổi của một
nhóm người lãnh đạo đều dẫn đến những hậu quả tai hại, các thế hệ sau
còn phải chịu đựng.
Trung Quốc chiếm
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, trong lúc người dân miền Bắc
đang phải hát bài ca ngợi Tình Bạn: “Việt Nam Trung Hoa núi liền núi
sông liền sông.” Trung Quốc lại đánh chiếm thêm một số đảo ở Hoàng Sa
năm 1988 trong lúc dân Việt được nghe chính quyền gọi họ là Kẻ Thù
truyền kiếp! Các chính sách coi Trung Quốc là bạn hay là thù, đều đưa
người Việt Nam đến chỗ bị thiệt thòi. Những cuộc thảo luận và điều đình
về biên giới và hải phận đầu thập niên 1990 càng khiến cho người dân
Việt thêm căm giận khi thấy nước mình bị lấn áp để mất mát nhiều quá.
Những xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc đang biểu hiện rõ ràng sau
những vụ tầu Trung Quốc cắt dây cáp của tầu thăm dò đáy biển của Việt
Nam trong tháng 5 và tháng 6 năm 2011 khiến chúng ta nên suy ngẫm thêm
một lần nữa để áp dụng một quy tắc trong mối bang giao với Trung Quốc:
Không nên coi một quốc gia nào là kẻ thù hay là bạn! Thước đo duy nhất
trong việc ngoại giao là quyền lợi quốc gia. Tại sao cứ phải nhắc lại
quy tắc trên? Vì nó có hiệu quả, nghĩa là nó mang lại lợi ích thiết thực
nhất khi biết áp dụng. Các quốc gia tồn tại được lâu đời lúc nào cũng
cư xử theo quy tắc này.
Dân Mỹ đã
đánh đuổi quân Anh để giành độc lập vào cuối thế kỷ 18; đến thời Nội
Chiến Mỹ chính quyền Anh vẫn còn muốn can thiệp. Nhưng trong thế kỷ 20,
ít có nước đồng minh nào gắn bó với nhau như Anh và Mỹ. Tuy vậy, các
chính phủ này họ không hành động theo “tình bạn” mà chỉ theo quyền lợi
quốc gia. Năm 1956, liên quân Anh Pháp tấn công Ai Cập, đến khi bị Mỹ đề
nghị triệu tập đại hội đồng Liên Hiệp Quốc làm nghị quyết phản đối, và
dùng cả IMF làm áp lực, Anh Pháp phải rút lui nhục nhã. Ngay trong Ðại
Chiến Thứ Hai, hai nước chắc chắn là bạn nhưng quyền lợi vẫn khác nhau.
Tháng 8 năm 1941, sau hai năm tìm cách thúc đẩy chính quyền Mỹ tuyên
chiến với Ðức, Ý và Nhật mà không được, Thủ Tướng Anh Winston Churchill
bí mật gặp Tổng Thống Mỹ Franklin Roosevelt ở ngoài khơi Canada trong
Ðại Tây Dương. Hai người bắt đầu trở thành đôi bạn tâm đắc, họ đồng ý
với nhau là phải ngăn cản những bước tiến của quân Ðức ở Nga và quân
Nhật ở Á Châu. Nhưng khi trở về nói chuyện với dân Mỹ, các nhà báo hỏi,
“Nước Mỹ có sắp tham chiến hay không?” Roosevelt trả lời: “Tôi nghĩ là
không.” Churchill thấy bị ông bạn quý bỏ rơi!
Ðầu
tháng 12 năm đó, Churchill gặp Ðại Sứ Mỹ John G. Winant ở London, hỏi:
Ông có nghĩ là Nhật sẽ gây chiến hay không? Thưa thủ tướng, có!
Churchill quả quyết: Nếu Nhật Bản tuyên chuyến với nước Mỹ, chúng tôi sẽ
tuyên chiến với họ ngay lập tức, ông biết không? Dạ tôi biết, thủ tướng
đã nói điều đó nhiều lần. Churchill: Nếu Nhật Bản tuyên chiến với nước
Anh, thì chính phủ Mỹ có tuyên chiến với họ hay không? (Lúc đó Churchill
đang lo Nhật, sau khi vào Việt Nam, sắp tấn công các thuộc địa Anh ở
Hồng Kông, Singapore, Miến Ðiện, Mã Lai). Ðại sứ Mỹ đáp: Thưa thủ tướng
tôi không thể trả lời được. Vì theo Hiến Pháp chỉ Quốc Hội Mỹ mới có
quyền tuyên chiến!
Nỗi thắc mắc của
Churchill sau được giải quyết, nhờ Nhật Bản. Ngày 7 tháng 12 năm 41,
Nhật tấn công Pearl Habor, Quốc Hội Mỹ biểu quyết tham dự vào cuộc Ðại
Chiến Thứ Hai – vì quyền lợi của nước họ, tuy nhiên vẫn có một phiếu
chống!
Nhưng trong thời gian sau đó,
chính phủ Mỹ luôn luôn tỏ ý muốn ngăn cản không cho nước Anh trở về
thống trị các thuộc địa cũ. Họ tìm cách hạ thấp vai trò của Anh tại Thái
Bình Dương. Bộ chỉ huy quân Mỹ ở không cho Hải quân Hoàng gia Anh tham
dự các trận đánh Phi Luật Tân hay Okinawa, mặc dù Tướng Mountbatten ngỏ ý
muốn giúp. Khi quân Nhật đảo chính Pháp ở Ðông Dương, Anh Quốc yêu cầu
quân Mỹ giúp vũ khí cho mấy ngàn quân Pháp đang chạy qua trú ở Trung
Quốc để họ quay về đánh Nhật. Bởi vì nếu để một xứ Việt Nam trở về tay
chính quyền do người Việt Nam cầm đầu (chính phủ Trần Trọng Kim), thì sẽ
có hại cho nền cai trị của Anh ở Miến Ðiện, Mã Lai sau này. Nhưng quân
đội Mỹ, đang có mặt bên cạnh Tưởng Giới Thạch, đã từ chối không giúp tàn
quân Pháp; ngược lại họ còn giúp các người Việt chống Pháp. Cố vấn
chính trị của Tướng Mountbatten than rằng chính quyền Mỹ coi nước Anh
như “tiểu bang thứ 49” của họ! Tại Paris, Tướng De Gaule than phiền với
Ðại Sứ Mỹ Jefferson Caffery, “Tôi không hiểu các ông muốn cái gì! Các
ông có muốn nước Pháp sẽ thành một nước trong Liên Bang Xô Viết hay
không?” Ngày 19 tháng 3, hơn hai tuần sau cuộc đảo chính Nhật, Churchill
đánh điện kêu gọi chính phủ Mỹ hãy giúp vũ khí cho tàn quân Pháp. Ngoại
trưởng Mỹ chuyển qua cho Tướng Wedemeyer ở Trùng Khánh, nhưng quân Mỹ
bất động, chỉ lo gửi hai máy bay qua Việt Nam cứu các điệp viên OSS của
họ. Sau khi Nhật đầu hàng, quân Anh được phép vào miền Nam Việt Nam,
nhưng khi họ để cho quân Pháp trở lại Sài Gòn thì đại diện quân đội Mỹ
rút ra khỏi Ủy Ban Kiểm Soát, không tham dự vào đạo quân đồng minh ở đó
nữa.
Hai nước Anh và Mỹ từ đầu đến
cuối Ðại Chiến Thứ Hai vẫn là đồng minh, nhưng mỗi nước vẫn chỉ lo cho
quyền lợi của chính mình. Mà không phải chỉ có hai nước đó. Nga và Ðức
đã ký hiệp ước không đánh nhau trước khi Ðức tấn công Pháp (Bạn). Nhưng
sau đó, Ðức đã đánh sang Nga (Thù). Nhật Bản và Nga đã kết bạn, ký thỏa
ước bất tương xâm năm 1941, nhưng sau khi bom nguyên tử Mỹ đã thả xuống
nước Nhật, Nga tuyên chiến và tiến quân vào Mãn Châu. Nếu không có Mỹ
ngăn cản thì Nga đã tiến chiếm lấy đảo Hokkaido ở phía Bắc nước Nhật.
Trong
việc ngoại giao, các quốc gia không thể coi một nước khác hoàn toàn là
bạn, hay là kẻ thù. Chính quyền mỗi nước phải theo quy tắc đó, không nên
bắt dân chúng tụng đọc mỗi ngày những bài tuyên truyền ca ngợi các nước
bạn vĩ đại, hoặc phỉ nhổ nước khác là kẻ thù man rợ! Khi cả nước tỉnh
táo, người ta không cần yêu quá mà cũng không ghét quá, thì lòng người
không thù hận mà cũng sợ hãi.
Ngô
Nhân Dụng - Trong các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc tháng 6 năm
2011 có một điều đáng mừng là người Việt Nam đi biểu tình ở khắp nơi chỉ
hô hào chống lại những hành động sai trái cụ thể của chính phủ Bắc Kinh
mà không bày tỏ lòng thù hận với người dân Trung Hoa ở lục địa. Thế
giới sẽ nhìn vào thái độ đó mà kính trọng người Việt Nam, nước Việt Nam.
Nhờ thế, chúng ta mới có thể kêu gọi các nước khác giúp nước ta tránh
khỏi bị nước láng giềng tiếp tục lấn áp.
Các
cuộc chiến thường xẩy ra giữa các nước khi chính quyền của một nước
muốn gây chiến mà người dân không được quyền quyết định cũng như không
biết những tai hại của chiến tranh. Các chính quyền độc tài thường sử
dụng một khí cụ để gây chiến, là kích thích lòng ái quốc, thúc đẩy thù
hận bằng lối tuyên truyền một chiều. Cuối cùng thì sau mỗi cuộc chiến
tranh, người dân luôn luôn bị thiệt hại. Nếu được tự do chọn lựa, dân
chúng các nước đều không muốn chiến tranh. Chỉ có thể giảm bớt chiến
tranh khi người dân các quốc gia đều được thông tin đầy đủ. Khi nào hai
quốc gia đều theo chế độ tự do dân chủ thì chính quyền khó nói dối người
dân để đưa họ vào vòng chinh chiến.
Chỉ
khi nào hai nước Việt Nam và Trung Hoa đều sống trong thể chế tự do dân
chủ thì chúng ta mới hy vọng giảm bớt được những xung đột trên mặt biển
hiện nay. Trong khi chờ đợi, người Việt Nam cứ phải luôn luôn bày tỏ
thái độ kịch liệt phản đối những hành động lấn áp, có lúc tàn bạo, của
chính quyền Trung Quốc, để chứng tỏ dân Việt Nam không chịu khuất phục.
No comments:
Post a Comment