 Tiêu Dao Bảo Cự
 - Trong lịch sử Việt Nam, nhiều người đánh giá trí thức chưa được hình 
thành như một tầng lớp có ảnh hưởng quyết định đến bước tiến của xã hội.
 Thời phong kiến cũng như các chế độ sau này, sĩ phu ngày xưa và trí 
thức ngày nay chỉ là tầng lớp thừa hành cho vua chúa và những người cầm 
quyền.
Tiêu Dao Bảo Cự
 - Trong lịch sử Việt Nam, nhiều người đánh giá trí thức chưa được hình 
thành như một tầng lớp có ảnh hưởng quyết định đến bước tiến của xã hội.
 Thời phong kiến cũng như các chế độ sau này, sĩ phu ngày xưa và trí 
thức ngày nay chỉ là tầng lớp thừa hành cho vua chúa và những người cầm 
quyền. Họ không có tiếng nói quyết định và chỉ đóng vai trò mờ nhạt. Thậm chí 
còn có người chê bai, dè bỉu là trí thức luôn hèn nhát và chỉ có thân 
phận tôi đòi, con hát cho các chế độ. Đây là một vấn đề lớn cần phân 
tích và bình luận thấu đáo.
 Họ không có tiếng nói quyết định và chỉ đóng vai trò mờ nhạt. Thậm chí 
còn có người chê bai, dè bỉu là trí thức luôn hèn nhát và chỉ có thân 
phận tôi đòi, con hát cho các chế độ. Đây là một vấn đề lớn cần phân 
tích và bình luận thấu đáo.
Tuy nhiên
 điều có lẽ nhiều người thừa nhận là trong lịch sử, một số cá nhân trí 
thức xuất chúng đã vượt lên, bằng trí tuệ và nhân cách, tác động vào 
lịch sử đương thời và mai sau, trở thành tấm gương sáng cho nhiều thế 
hệ.
Chu Văn An với “Thất trảm sớ” đòi
 chém đầu 7 kẻ nịnh thần không được liền cáo quan lui về ở ẩn, dạy học, 
được đời sau xưng tụng là “vạn thế sư biểu”.
Nguyễn
 Trãi làm quân sư cho Lê Lợi, với chủ trương “đem đại nghĩa để thắng 
hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo”, dùng sách lược “tâm công” để 
đánh địch. Ngòi bút của ông trong những bức thư dụ hàng gởi kẻ địch có 
hiệu lực không thua kém những đoàn quân xung trận. “Bình ngô đại cáo” là
 một bản “thiên cổ hùng văn” dấy lên niềm tự hào và sức mạnh dân tộc 
xuyên suốt dòng lịch sử Việt Nam mà thời nào cũng phải đương đầu với bọn
 xâm lược nước ngoài. Dù sau đó với cái họa “tru di tam tộc” do bọn vua 
chúa và quyền thần sa đọa gây nên, tên tuổi Nguyễn Trãi vẫn luôn là ngôi
 sao bắc đẩu trong lịch sử soi đường cho trí thức Việt Nam.
Trạng
 Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ hướng cho các Chúa Nguyễn vào nam với câu 
“hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” không những giúp mở đầu cho một 
triều đại mà còn mở cõi cho đất nước về phương nam.
Một anh hùng trên ngựa như Tây Sơn Nguyễn Huệ cũng đã bái La Sơn Phu tử làm quốc sư lúc đi chinh chiến cũng như lúc trị vì.
Thời
 nhà Nguyễn, Nguyễn Trường Tộ khi có dịp đi ra nước ngoài, mở mắt nhìn 
văn minh thiên hạ, thấy sự lạc hậu của đất nước đã viết điều trần tỉnh 
thức vua quan về con đường canh tân đất nước.
Cao
 Bá Quát, con người học rộng chí cao, nhà thơ tài hoa, “một đời chỉ biết
 cúi lạy trước hoa mai”, khinh miệt trò “nhai văn nhá chữ”, không chịu 
đựng nổi triều đình lạc hậu, áp bức đã đi vào con đường “làm phản” dù 
cuối cùng chịu rơi đầu trên pháp trường.
Với
 một số kẻ sĩ  như thế (chưa kể hết), nếu có ai bảo sĩ phu thời phong 
kiến toàn là một lũ tôi đòi, con hát thì đúng là không công bình, “vơ 
đũa cả nắm”.
Thời hiện đại, trí thức có môi trường rộng hơn các bậc tiền bối của mình ngoài quan trường và nơi dạy học.
Giai
 đoạn Pháp thuộc, nhóm Nam Phong tạp chí với Phạm Quỳnh, nhóm Đông Dương
 tạp chí với Nguyễn Văn Vĩnh, các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn và nhiều nhà 
văn tài năng khác đã dùng ngòi bút để nâng cao dân trí, đề cao văn hóa, 
tạo ra ảnh hưởng xã hội không nhỏ.
Phan
 Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Lý Đông A cùng nhiều trí thức
 yêu nước tân, cựu học đã vạch ra đường lối cứu nước và đi vào hành 
động, gây men cho lòng ái quốc dưới thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp.
Sau
 1954, phong trào “Nhân văn – Giai phẩm” ở miền Bắc đã làm xuất hiện 
những trí thức, những nhà văn mà trí tuệ, tài năng và nhân cách, dù bị 
vùi dập trong thời gian dài nhưng cũng đến lúc họ được chiêu tuyết, tôn 
vinh và là niềm hứng khởi cho các thế hệ mai sau.
Ở 
 miền Nam cũng không thiếu những trí thức dám phản kháng những người cầm
 quyền mà tiêu biểu là Nhất Linh với câu nói “Đời tôi để lịch sử xử” khi
 tự sát, không chấp nhận cho chế độ Ngô Đình Diệm đưa ra tòa xét xử. Về 
sau này, Nguyễn Ngọc Lan (cùng với Chân Tín) chủ trương tạp chí Đối 
Diện, công khai thách thức nhà cầm quyền với phương châm “sống thẳng, 
nói thật”, “cúi ngửa theo người quyết chẳng theo” (kể cả sau 1975, cho 
đến khi ông mất).
Sau 1975, những trí
 thức có tinh thần phản kháng không phải ít. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó 
khăn và nguy hiểm, những trí thức Miền Nam dám lên tiếng phê phán chế độ
 để rồi phải nhận nhiều năm tháng tù đày như bác sĩ Nguyễn Đan quế, giáo
 sư Đoàn Viết Hoạt, cho thấy họ không hề hèn nhát.
Cuối
 thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ trước, giới văn nghệ sĩ “đổi mới” trước
 đảng hay cùng với đảng đã có những suy nghĩ, tiếng nói, tác phẩm  khác 
với quan điểm lập trường của đảng và nhà nước. Có thể kể: Nguyên Ngọc, 
Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, Trần Văn Thủy, Bùi Minh Quốc, Nguyễn 
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Trần Huy Quang, Trần Mạnh 
Hảo, Phùng Gia Lộc, Hoàng Hưng, Đào Hiếu, Nguyễn Viện, Trần Vàng Sao, kể
 cả Lê Lựu, Bảo Ninh… , tiếp theo sau đó là các nhà văn trẻ hơn như 
Nguyễn Quốc Chánh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Danh Lam…
Cũng
 thời gian này, đề cập trực tiếp đến những vấn đề chính trị, không ít 
trí thức đã công khai đối lập với chế độ. Miền Nam có Chân Tín, Nguyễn 
Ngọc Lan, Lữ Phương, Nguyễn Văn Trấn, nhóm “Câu lạc bộ những người kháng
 chiến cũ” với Nguyễn Hộ, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu…,  “nhóm thân hữu Đà 
Lạt” với Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Mai Thái Lĩnh, Trần Minh Thảo… Miền 
Bắc có Hoàng Minh Chính (tiếp tục phản kháng từ những năm trước), Trần 
Độ, Nguyễn Thanh Giang, Hoàng Tiến, Lê Hồng Hà, Nguyễn Kiến Giang, Trần 
Lâm, Trần Khuê, Phạm Quế Dương, Vũ Cao Quận, Trần Dũng Tiến…
Bước
 sang thế kỷ 21, số lượng trí thức lên tiếng phản đối chế độ ngày càng 
đông và càng trẻ hơn (bên cạnh những người lớn tuổi đã xuất hiện từ 
trước), có quan điểm, thái độ và hành động ngày càng triệt để mạnh dạn 
hơn và thuộc nhiều giới trí thức.
Bác sĩ như Phạm Hồng Sơn, Lê Nguyên Sang.
Nhà
 báo chính thống và sau này là nhà báo tự do kiểu blogger như Nguyễn Vũ 
Bình, Nguyễn Khắc Toàn, Huỳnh Văn Đạo, Trang Hạ, Điếu Cày Nguyễn Văn 
Hải, Trần Huỳnh Duy Thức, Người buôn gió, Đoan Trang, Mẹ Nấm, Huỳnh Thục
 Vy…
Luật sư với Nguyễn Bắc Truyển, 
Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Tạ Phong 
Tần, Phan Thanh Hải, Lê Hiếu Đằng, Cù Huy Hà Vũ.
Văn
 nghệ sĩ như Bùi Ngọc Tấn, Tô Hải, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Trọng Tạo, 
Nguyễn Quang Lập, Võ Thị Hảo, Song Chi, Trần Khải Thanh Thủy, Đỗ Hoàng 
Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Bùi Chát – Lý Đợi với nhóm Mở Miệng và nhà xuất 
bản Giấy Vụn…
Nhà giáo với Nguyễn Thượng Long, Vũ Hùng.
Những người kể cả cán bộ đảng viên còn trong bộ máy nhà nước như Vy Đức Hồi, nhóm IDS, nhóm khởi xướng trang Bauxite Việt Nam.
Các
 trí thức học ở nước ngoài trở về như Đỗ Nam Hải, Nguyễn Tiến Trung, 
Phạm Minh Hoàng, hoặc đang làm việc ở nước ngoài như Ngô Bảo Châu.
Những
 trí thức trên đây, có một số ít người ở trong các tổ chức chính trị mà 
nhà cầm quyền đánh giá là bất hảo, nhưng phần lớn là những tiếng nói độc
 lập, tiếng nói của lương tri. Tiếng nói của họ thể hiện tinh thần phản 
kháng trước cái xấu, cái ác, những sai lầm của chế độ, vang lên khát 
vọng tự do dân chủ và quyền được sống như con người hạnh phúc của một 
dân tộc đã trải qua nhiều đọa đày.
Trong số những hoạt động dồn dập gần đây, chịu sự trù dập thô bạo, nhận những bản án nặng nề, có mấy hiện tượng đáng chú ý:
Giới
 luật sư có số lượng đông đảo nhất. Họ là những người thành đạt trong xã
 hội, am hiểu luật pháp và bất bình trước việc nhà nước thường sử dụng 
luật rừng trong khi có cả một rừng luật. Đây là những người có kiến 
thức, trí tuệ, tâm huyết và cả lòng dũng cảm để trở thành lực lượng xung
 kích trong cuộc vận động đấu tranh dân chủ hóa đất nước.
Trong
 phong trào đấu tranh ở đô thị Miền Nam thời chiến tranh, sinh viên học 
sinh là lực lượng xung kích nhưng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, họ bị 
nhồi sọ và kềm kẹp từ thuở bé nên không có được sức bật của tuổi trẻ. 
Tuy nhiên sự trong sáng và nhiệt tình họ vẫn còn giữ được và chỉ chờ cơ 
hội là bùng lên. Việc sinh viên khởi phát biểu tình chống Trung Quốc xâm
 lược ngày 9 tháng 12 năm 2007 làm nhà cầm quyền hốt hoảng và phải dùng 
nhiều biện pháp để kềm chế. (Đây là “cơ hội vàng” bị bỏ lỡ vì chính là 
một dịp để đoàn kết toàn dân nâng cao tinh thần cảnh giác chống xâm lược
 và giúp nhà cầm quyền có chiến lược ngoại giao độc lập tự chủ dựa vào 
sức mạnh của nhân dân). Vụ việc mới nhất với sinh viên Nguyễn Anh Tuấn 
thách thức nhà cầm quyền truy tố, bỏ tù anh vì anh công khai ủng hộ cho 
Cù Huy Hà Vũ là một biểu tượng cho niềm hi vọng vào giới trí thức trẻ.
Cùng
 với sự phát triển của Internet và công nghệ thông tin, sự xuất hiện của
 các blog với những blogger như những nhà báo không chuyên, nhanh nhạy 
với các vấn đề thời sự, có sức quảng bá rộng, tính tương tác cao, ảnh 
hưởng nhiều đến giới trẻ và trí thức là một yếu tố mới mà nhà cầm quyền 
rất khó ngăn chặn.
Nhóm Mở Miệng và 
nhà xuất Bản Giấy Vụn gồm những nhà văn trẻ không tuyên ngôn rùm beng, 
đao to búa lớn nhưng họ sáng tác để cách tân văn học và tỏ thái độ đối 
với những vấn đề xã hội, tự làm những gì mà hiến pháp không cấm, bất 
chấp những ràng buộc, quy định của nhà nước. Họ tự cho mình có quyền tự 
do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do xuất bản là những quyền căn bản của 
quyền làm người, đặc biệt quan trọng đối với trí thức.
Gần
 đây, đảng và nhà nước, báo chí hay dùng từ “phản biện” để chỉ những ý 
kiến khác biệt với đường lối chính sách của nhà cầm quyền. Thường trí 
thức mới phản biện vì họ có kiến thức và lý lẽ, hay suy tư và thích 
tranh luận. Dĩ nhiên cũng có “phản biện xã hội” vì bất cứ người dân nào 
cũng có những suy nghĩ về những gì tác động đến cuộc sống của họ. Tuy 
nhiên rõ ràng việc phản biện tập trung vào tầng lớp trí thức.
Phản
 biện có ích gì không? Nhất định là có ích vì nó soi sáng nhiều mặt, 
nhiều góc cạnh của một vấn đề. Phản biện giúp cho nhà nước có cơ sở điều
 chỉnh đường lối chính sách và giúp cho người dân hiểu đầy đủ vấn đề, 
đặc biệt là những vấn đề lớn liên quan đến quốc kế dân sinh.
Tình
 hình hiện nay cho thấy những phản biện của trí thức có tác động phần 
nào lên cách suy nghĩ của nhân dân (một bộ phận không lớn được tiếp cận 
thông tin) nhưng đối với nhà cầm quyền chỉ là một trò chơi dân chủ vì họ
 hầu như rất ít khi lắng nghe và tiếp thu, sửa chữa. Những vụ lớn, nổi 
bật như khai thác bauxite, Vinashin, cho thuê rừng đầu nguồn, vấn đề 
biên giới, đường xe lửa cao tốc… và đặc biệt quan trọng là việc góp ý 
cho cương lĩnh đại hội của đảng. Việc tổ chức hay cho phép, làm ngơ 
trước sự xuất hiện của   những ý kiến phản biện chỉ để làm cảnh, trang 
trí dân chủ giả hiệu. Tiếng nói phản biện của trí thức trong trường hợp 
này, đối với nhà cầm quyền, chỉ là “chim hót trong lồng” không hơn không
 kém.
Vì không chịu chỉ hót trong 
lồng, từ phản biện, nhiều trí thức đã chuyển sang phản kháng, bằng tư 
tưởng và cả hành động. Có người chỉ dừng lại trong việc phản biện nhưng 
có người đã chuyển sang phản kháng dù phải trả giá đắt hơn. Những điều 
này dần dần đưa người cầm quyền vào chỗ mất tính chính danh, bị cô lập 
và mất lòng tin của quần chúng khi quần chúng dần được thức tỉnh. Những 
khẩu hiệu sáo rỗng về vai trò của trí thức trong các cương lĩnh, nghị 
quyết của đảng không còn chút giá trị thuyết phục nào khi thực tiễn hoàn
 toàn ngược lại.
Trí thức nên phản 
kháng hay chỉ phản biện? Điều này tùy thuộc nhận thức, hoàn cảnh, lòng 
dũng cảm, sự khôn ngoan và cách thế chọn lựa của từng người. Không nên 
phê phán hay cưỡng ép. Vụ Ngô Bảo Châu lên tiếng về Cù Huy Hà Vũ dấy lên
 nhiều dư luận trái chiều, đặc biệt có những phê phán nặng nề, cho thấy 
không phải chỉ nhà cầm quyền mới độc quyền chân lý mà ngay những kẻ tự 
cho mình là trí thức, đấu tranh cho dân chủ cũng không muốn ai nói khác 
mình.
Năm 2005, khi thăm Tháp Bút ở 
hồ Hoàn Kiếm Hà Nội, tôi có cảm hứng để viết bài “Tả thanh thiên” (đăng ở
 diễn đàn talawas)  cũng nói về vai trò của trí thức trong việc “tả 
thanh thiên” – viết lên trời xanh. Ngòi bút viết lên trời xanh chỉ có 
thể là viết về nỗi thống khổ của con người, về sự hà khắc tàn bạo của 
thế lực cầm quyền. Viết lên trời xanh là để kêu gào. Viết lên trời xanh 
là để gởi tới con người và gởi tới mai sau khi ngòi bút, những người cầm
 bút bị kềm hãm, phong tỏa. Viết lên trời xanh là hành động can đảm của 
người cầm bút chống lại chế độ độc tài thống trị.
Sau đây là đoạn kết của bài đó:
“Sứ
 mệnh của người cầm bút không phải chỉ là “Tả thanh thiên”. Còn biết bao
 nhiêu điều để kẻ sĩ – trí thức – văn nghệ sĩ theo đuổi và hiến dâng 
trên con đường suy ngẫm, nghiên cứu và sáng tạo của mình: ngợi ca tình 
yêu và cái đẹp, đi tìm chân lý cho cuộc sống, soi rọi những trang lịch 
sử u ám hay bị bỏ quên hay bóp méo, lang thang trên những nẻo tâm linh 
muôn thuở… 
Tất cả đều mang 
lại giá trị tinh thần cho con người. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh mà con 
người bị chà đạp, tước mất quyền sống như con người, ngọn bút “Tả thanh 
thiên” là cần thiết. Dù tình hình bi đát đến đâu, kể cả khi 
tưởng như tuyệt vọng, nhưng nếu vẫn còn những ngọn bút “Tả thanh thiên”,
 dân tộc hãy còn có hy vọng.
Nhưng
 để hoàn thành một cuộc đổi đời, cách mạng cho đất nước, những ngọn bút 
“Tả thanh thiên” không đủ. (Và cũng không thể đòi hỏi ở các ngọn bút 
nhiều hơn). Điều này đòi hỏi một sự nghiệp khác, lớn lao hơn, với sự huy
 động toàn diện sức mạnh và tiềm năng của cả dân tộc.”
Ở
 đây tôi muốn nói thêm: Giá trị của trí thức là ở tư tưởng, tiếng nói, 
ngòi bút tự do. Nếu trí thức chỉ im lặng như bầy cừu, chỉ đi dọc “lề bên
 phải” theo chiếc gậy của người chăn, lúc đó trí thức đáng bị xem như 
hạng tôi đòi. Nhà cầm quyền nếu không biết tôn trọng, lắng nghe tiếng 
nói của trí thức (thực sự là “nguyên khí quốc gia” chứ không phải chỉ là
 khẩu hiệu suông và lời nói giả dối), trong thời đại toàn cầu hóa và 
kinh tế tri thức này, sẽ chỉ đưa đất nước và dân tộc đến chỗ lạc hậu, tù
 hãm và đau khổ kéo dài.
© Tiêu Dao Bảo Cự
 
 
No comments:
Post a Comment