 Mai Thanh Truyết - Ngay từ giữa năm 1976, sau khi giải tán cái gọi là Mặt trận Dân tộc 
Giải phóng Miền Nam, chấm dứt giai đoạn làm công cụ để lừa bịp ngưới dân
 Việt và thế giới, CS Việt nam bắt đầu lưu ý đến việc phát triển thành 
phố Sài Gòn. Thành ủy cho cán bộ tập kết từ miền Nam ra Bắc vào những 
năm 1954,
Mai Thanh Truyết - Ngay từ giữa năm 1976, sau khi giải tán cái gọi là Mặt trận Dân tộc 
Giải phóng Miền Nam, chấm dứt giai đoạn làm công cụ để lừa bịp ngưới dân
 Việt và thế giới, CS Việt nam bắt đầu lưu ý đến việc phát triển thành 
phố Sài Gòn. Thành ủy cho cán bộ tập kết từ miền Nam ra Bắc vào những 
năm 1954, cho đi du học ở Liên Sô để có cấp bằng Phó Tiến sĩ. Thành phần nầy được cho vào Nam trước hết và bắt đầu thực hiện và xây dựng nến móng ban đầu cho một cơ chế mới trong xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật.

Vì
 chính sách và chủ trương của người chiến thắng trong giai đoạn ban đầu 
(và cũng mãi mãi cho đến hiện tại) là đeo đuổi chính sách “quá độ” để 
tiến lên xã hội chủ nghĩa, cho nên họ phủ nhận tất cả những gì hiện có ở
 miền Nam như cơ sở vật chất và chất xám Nam kỳ trước 30/4/1975 nhằm 
hình thành một nền kinh tế theo mô thức tư bản nhà nước với một hệ thống
 phát triển và sản xuất theo quan điểm của cộng sản.
Bài viết nầy 
dựa theo lời kể của một nhà khoa học trẻ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã
 có “cơ duyên” tham dự ngay từ những ngày đầu tiên của Ủy ban Khoa học 
sau nầy.
Giai đoạn quân quản
Ngay sau khi 
tiến chiếm Sài gòn, CS Việt Nam bắt đầu thiết lập ngay chế độ quân quản 
cùng xử dụng một số “cách mạng nằm vùng” và “cách mạng 30/4” trong các 
công sở cùng những xí nghiệp công tư trong thành phố. Nhờ thế, họ có khả
 năng xây dựng lại cơ cấu hành chánh và quản trị từng nơi với những chỉ 
điểm của hai loại cách mạng trên. Việc quản lý nhân sự “cũ” cũng không 
mấy khó khăn cho họ, vì có những lời thêu dệt của hai loại cách mạng 
trên để “lấy điểm” của những hạng người “ăn cơm quốc gia mà thờ ma cs”.
Thành
 quả ban đầu có thể kể đến trước hết là, hầu như tất cả những loại công 
xa của VNCH đều được chuyển về Bắc, thậm chí đến những máy phát điện 
thời Ấp chiến lược (thời cuối thập niêm 1950), và chiếc cầu Bến Lức cũng
 được “làm thịt” để mang về Bắc. Một chuyện đáng kể hơn hết là máy 
computer lớn IBM cũng được trang trọng lên tàu vượt tuyến…Nhưng kết quả 
sau cùng là những nguyên vật liệu kể trên biến thành một đống sắt vụn, 
các máy phát điện ở rải rác các quận huyện ngoài Bắc, còn máy IBM không 
biết hiện giờ nằm ở góc xó nào?
Qua vài hình ảnh kể trên để người 
đọc nhận định được chánh sách ban đầu của Ban Quân quản. Còn đối với 
trong Nam, tất cả hầu hết các phương tiện sản xuất từ lớn tới nhỏ đều bị
 tịch thu và chủ nhân những cơ sở nầy đều bị đi “cải tạo” (tù). Người 
viết có dịp được nghe qua lời kể của một cán bộ đã từng giữ vai trò cao 
nhứt nước là trong thời gian nầy, có một “nhà máy” sản xuất thắng xe đạp
 (phanh xe đạp) là một căn nhà rộng 5 x 25 thước, công nhân gồm hai vợ 
chồng và gia đình đứa con gái…Máy móc gồm một máy dập nhôm phế thải 
thành nhôm thỏi, thu mua được từ các “nhà” thu mua “lạt son, ve chai, và
 kim loại”..Một máy khác là máy ép thành các hàm thắng nhôm.
Chỉ 
giản dị như thế mà sản xuất được hàng loạt sản phẩm cung ứng cho thị 
trường thành phố Sài Gòn và các tỉnh. Trong lúc đó, ngoài Bắc có một xí 
nghiệp quốc doanh làm phanh gồm nhiều trăm nhân viên nhưng hàng xuất 
xưởng bị quá nhiều “sự cố” về phẩm chất! Khi chiếm được cơ sở sản xuất 
trong Chợ Lớn trên, việc tiếp thu và quản lý gồm tổ công đoàn, tổ chị 
nuôi, tổ hành chánh, tổ sản xuất, tổ an ninh….gồm hàng trăm nhân 
viên….nhưng cuối cùng không một thành phẩm nào được ra đời sau đó cả.
Đó là một sự thật, và tình trạng nầy tương tự như hầu hết tất cả những xí nghiệp đã được quân quản “tiếp thu”.
Và
 giai đoạn thành hình và tiến tới việc thành lập Ủy ban Khoa học Thành 
phố cũng không là một ngoại lệ, xin được mô tả dưới đây.
Trạm Sản xuất Thí nghiệm
Vào
 khoảng tháng 6, 1976, một nhà đòn nằm ở ngã tư đường Đề Thám và Cô Bắc 
đã bị trưng dụng. Một Phó tiến sĩ người miền Nam tập kết, NCKhanh (mất 
năm 2003), bắt đầu giai đoạn tìm kiếm nhân sự khoa học của miền Nam cũ 
để mời hợp tác. Một số giáo chức đại học và kỹ sư các công ty từng làm 
việc trong khu kỹ nghệ Biên Hòa được tiếp xúc tham gia hợp tác. Và, Trạm
 Sản Xuất thí nghiệm ra đời tại địa điểm trên.
Cũng cần ghi nhận 
là tầng lớp khoa học của miền Bắc trong giai đoạn chiến tranh được huấn 
luyện ở Liên Sô thời bầy giờ. Việc đỗ đạt Phó Tiến sĩ cũng như cung cách
 và chương trình đào tạo thiết nghĩ không cần phải bàn nơi đây vì có thể
 nói 100% “thực tập sinh” du học ở Liên Sô sau khi tốt nghiệp về không 
biết nói tiếng…Nga!
Choáng ngợp trước sự phát triển của VNCH, sau 
khi vào Nam, họ càng thể hiện một thái độ tự đắc của người chiến thắng 
để hầu mong che đậy một mặc cảm tự ti trong tiềm thức.
Do đó, họ 
bắt đầu đi “săn lùng” nhân sự khoa học có tầm vóc của chế độ VNCH và 
được biết đến trong thành phố. Công việc trong giai đoạn nầy của Trạm là
 đi “tiếp thu” các cơ sở sản xuất hay nhà cửa của những người đi di tản 
trước đó hay các nhà bị đánh tư sản “mại bản”. Chỉ một thời gian ngắn 
sau, địa điểm số 208 Hùng Vương được biến thành một tổ thí nghiệm sản 
xuất đầu tiên của Trạm. Đó là Tổ Hữu cơ do một giảng nghiệm trưởng Trần 
Văn Long của ban Hóa học ĐH Khoa học Sài Gòn đảm nhiệm (hiện ở 
Montréal).
Vài tháng sau, địa điểm số 101 Đường Nguyễn Du, một 
biệt thự của một kiến trúc sư nổi tiếng thời VNCH, được trở thành Văn 
phòng của Trạm và Trạm được đổi tên thành Trung Tâm Nghiên Cứu Sản Xuất 
Thử.
Các địa điểm kể ra sau nầy lần lần được thành lập theo thứ tự thời gian như:
·         Tổ Muối, nằm trên đường Hùng Vương do một cựu Đại tá VNCH, Nguyễn Văn Sâm  làm tổ trưởng;
·         Tổ Đá Quý năm trên đường Phan Thanh Giản gần ngã bảy Lý Thái Tổ do ngưới con rễ của vị Đại tá trên;
·        
 Tổ nấm mốc nằm trên đường Gia Long, là dược phòng của Giảng sư ĐH Khoa 
Học Sài Gon, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sương làm Tổ trưởng;
·         Tổ Cơ khí nằm gần cầu Băng Ky, Gia Định do một kỹ sư của công ty Đường Việt Nam, Mai Thanh Tra làm Tổ trưởng;
·        
 Tổ dược phẩm nằm ở số 4 đường Tự Đức. Đây là viện bào chế của dược sĩ 
Nguyễn Chí Nhiều cũ. Tổ nấy do một tiến sĩ du học ở Hoa Kỳ (không nhớ 
tên, hiện ở San Jose) về nước trước 1975 đảm nhiệm;
·         Địa 
điểm 15 đường Nguyễn Gia Thiều được xử dụng như một nơi tập hợp chuyên 
viên do một anh Phó TS người miền Nam tập kết làmTổ trưởng;
·        
 Và sau cùng địa điểm ở góc đường Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ bây 
giờ) và Đoàn Thị Điểm  là trụ sở của Ủy Ban Khoa học Thành phố từ năm 
1980 cho đến ngày nay.
Qua các phát triển cơ sở vật chất như trên 
và dưới chính sách kêu gọi sự hợp tác của các nhà làm khoa học cũ, những
 sĩ quan biệt phái phải đi học tập, Thành ủy lúc bấy giờ do Võ Văn Kiệt 
nắm giữ đã cho ra Nghị quyết 36/TpHCM trong đó đưa ra chính sách bảo 
lãnh những nhà khoa học trên trong các trại “học tập” ra “phục vụ” trong
 các chương trình phát triển thành phố kể trên.
Để có một khái 
niệm về sản xuất và thí nghiệm trong phát triển theo quan điểm của người
 cộng sản Việt lúc bấy giờ, chúng tôi xin ghi lại các phần nhiệm của các
 Tổ kể trên cũng như một số dự án đã thực hiện.
Tổ Hữu Cơ
Tổ nầy nhằm mục đích khai triển các dự án dưới hình thức pilot tức sản xuất nhỏ. Các dự án sau đây đã được thực hiện:
·        
 Sơn bóng Verni Urethane do TS Chu Phạm Ngọc Sơn làm chủ dự án dựa theo 
luận án tiến sĩ của ông ở Hoa Kỳ. Nơi đây đã sản xuất được những mẻ 
verni bóng để làm mẫu;
·         Dự án khai thác bentonite do TS 
Chu Phạm Ngọc Sơn và Trần Kim Thạch. Dự án căn cứ vào tính chất hấp thu 
(absorption) dầu của đất sét bentonite được tìm thấy ở vùng Thái Mỹ, nằm
 trên ranh giới tỉnh Tây Ninh và Tân An. Nhóm địa chất của tổ nầy đã đi 
khoanh vùng và ước tính trữ lượng của Bentonite ở nơi đây. Sau đó, khai 
thác đất sét, mang về Tổ để tách rời bentonite nguyên chất bằng phương 
pháp rữa sạch và ly tâm. Đất bentonite tinh chất nầy được xem như là một
 phụ gia trong việc chế biến xà bông gọi là xà bông bentonite, dùng để 
tẩy rửa trong các hảng xưởng hay bịnh viện. Đã sản xuất thử và xử dụng;
·        
 Dầu thông: Một phương án đã được áp dụng là khai thac dầu thông, 
térébenthine, và colophane ở Tùng Nghĩa, các Thị xã Đà Lạt khoảng 30 Km,
 bằng cách chưng cất cây thông trong vùng. Dung dịch sau khi chưng cất 
có tính acid (acetic acid) và còn lại mốt số dư lượng của dầu được tận 
dụng qua sang kiến của một giáo chức trẻ lúc bấy giờ, để làm thuốc xức 
ghẻ “bộ đội”. Số là, vì thiếu ăn và vì điều kiện vệ sinh của môi trường 
nước và không khí kém, cho nên sức miễn nhiễm và đề kháng của người dân 
Sài Gòn giảm thiểu rất nhanh. Do đó, dễ bị nhiễm độc vào những chỗ hiểm 
yếu của cơ thể như lòng bàn tay, bàn chân, kẻ tay, dưới nách v.v…Vào 
thời đó, những loại thuốc khử trùng thông thường như teinture d’iode hay
 mercurochrome hầu như biến mất. Trong một buổi đi thăm biệnh viện Da 
Liễu đường Bà Huyện Thanh Quan, vị giáo chức trẻ kia đề nghị dùng nước 
chưng cất để trị bịnh. Và đề nghị trên đã được chấp thuận cũng như các 
bình chứa bằng chai lấy được ở hãng dầu khuynh diệp bác sĩ Tín, đã được 
chuyên chở từ Tùng Nghĩa về bịnh viện và trị liệu các chứng bịnh “thời 
đại” trên. Từ đây, chàng giao chức trẻ kia có được danh xưng là Ông Kỹ 
sư thanh niên do chính Võ Văn Kiệt đặt cho;
·         Ngoài ra còn
 có hai dự án không nằm trong Tổ Hữu Cơ là dự án tinh chế Hà thủ ô và 
tinh chế étoile d’anis (đại hồi). Số là sau khi trưng dụng cộng ty BGI ở
 đường Hai Bà Trưng và Tăng Bạt Hổ. Nước xá xị Con Cọp được điều chế 
bằng mùi của hột hồi. Hột đại hồi nầy mọc rất nhiều ở tỉnh Hoàng Liên 
Sơn trên độ cao trên 3.000 thước. Ngoài Bắc không có khả năng để ly 
trích hột hồi nầy. Do đó, sau khi xử dụng hết lượng nguyên liệu hồi còn 
lại của hảng BGI, cần phải có dầu hồi để sản xuất xá xị. Ông Thanh niên 
được mời gọi đảm nhiệm công cuộc lý trích trên. Dầu hồi là một loại dầu 
có tỷ trọng chỉ nhẹ hơn nước (d = 1.00) một ít (d = 0.96) và có tính 
thăng hoa (sublimation) rất cao. Do đó, nếu chưng cất quá nóng dầu sẽ 
biến thành khí và bay đi mất. Trong thời gian sản xuất dầu hồi, Ông 
Thanh niên được dịp để làm ra rượu khai vị (aperitif) Anis (giống như 
rươu Pernot của Pháp) để biếu bạn bè, cũng thơm và có vị ngọt như rượu 
nhập cảng từ Pháp vì khi cho nước đá hay pha thêm nước thì dầu hồi trở 
thành một dung dịch đục như sữa vậy.
·         Còn dự án tinh chế 
hà thủ ô có lịch sử như sau: Ở trại học tập Trảng Lớn, “học tập viên” 
khám phá rất nhiều dây hà thủ ô trong rừng (đừng hy vọng tìm được củ Hà 
thủ ô giống như trong chuyện kiếm hiệp vì củ hà thủ ô nằm rất sâu trong 
lòng đất có thể trên 9, 10 thước và lâu năm). Đặc tính của cây hà thủ ô 
là tăng cường sinh lực và làm cho tóc đen. Việc ly trích hà thủ ô cũng 
giống như ly trích hột hồi ở trên, nghĩa là dùng nhiệt độ thấp vừa đủ 
làm cho nước sôi (đun dộ 1200C). Dầu hà thủ ô sẽ chảy qua một ống xoắn 
serpentin có đường kính nhỏ độ 5 mm, sau đó được làm lạnh lại trong 
nước. Hà thủ ô kết tinh lại dưới một dạng dẻo. Hà thủ ô ngâm với rượu là
 một loại thuốc bổ, chỉ cần mỗi tối trước khi đi ngủ, uống một ly nhỏ là
 bạn có thể có một giấc ngủ dài ngon giấc. (Chúng tôi không dám lạm bàn 
đến sức tăng cường sinh lực của hà thủ ô ở đây).
·         Nhà máy
 sản xuất ammoniac: Vào giữa năm 1974, TS Hoàng Cơ Định và KS Lâm Văn 
Giản đã hợp tác và xây dựng một nhà máy sản xuất ammoniac ở Bún, trên 
đường lên Thủ Dầu Một. Ông Thanh Niên cũng giữ phần nhiệm nghiên cứu để 
hy vọng xem có thể xử dụng được hay không? Qua quan sát trực diện, nhà 
máy chỉ mới xây dựng khung nhà ban đầu và hai bồn chứa bằng xi măng…cho 
nên không cần phải tái cấu trúc lại để xử dụng vì quá tốn kém và ở một 
địa điểm không thích hợp cho sản xuất, cũng như nguồn điện và nước cần 
thiết, và phương tiện chuyển vận.
Tổ Muối
Muối
 là một loại thự phẩm tuy đơn giản nhưng rất cần thiết cho nhu cầu ăn 
uống của người dân cũng như trong nhiều công trình sản xuất khác. Ở 
những năm đầu tiên sau 30/4, muối bị khan hiếm trầm trọng. Người dân 
không có đủ muối để ăn và giá cả trên thị trường tương đối cao hơn so 
với các thức ăn khác.
Tổ muối được thành lập và dùng phương pháp 
tẩy rửa và ly tâm để tách muối hột từ các ruộng muối ở các tỉnh ven biển
 thành muối “bọt” trắng và sạch. Tổ nầy đã đi vào sản xuất thường xuyên 
và có thể sản xuất vài tấn muối hàng ngày.
Tổ Đá Quý
Gồm
 một nhóm chuyên viên địa chất đi thăm dò các mỏ đá quý ở khắp nơi rồi 
mang về dùng cưa, đục để tách đá quý thô. Sau đó, mài, giũa…để làm những
 món hàng trang sức. Chính cơ sở nầy là một bàn đạp ban đầu cho một 
thành viên của VVK thành lập một công ty đá quý ở Singapore sau nầy.
Tổ Nấm Mốc
Đây
 là một tổ đặc biệt có cơ sở vật chất tương đối quy cũ vì là một dược 
phòng sản xuất thuốc tây và có phòng thí nghiệm được khử trùng. Đã sản 
xuất được meo làm nấm mèo (mộc nhĩ) và nấm rơm. Tổ đã thực hiện hướng 
dẫn và bày bán cho dân chúng. Meo được chứa trong những chai nước biễn 
cũ và được khử trùng trước khi tung ra thị trường. Năng suất rất cao, 
nhứt là nấm mèo. Thay vì dùng cây so đũa (có đường kính nhỏ) để “gieo 
meo”, người dân được hướng dẫn dùng bất cứ loại cây nào có mủ trắng như 
xoài, mít, nhứt là cây cao su già. Người kể lại đã từng thí nghiệm và 
nhận thấy năng suất rất cao, các tai nấm mèo to như bàn tay của một 
người trưởng thành và dầy cơm. Nấm mèo nếu ăn khi còn tươi rất mát và 
dòn.
Tổ Cơ Khí
Đây là một tổ có nhiệm vụ 
“chế tạo” ra những máy móc dùng trong các dự án của các tổ khác như các 
máy ly tâm, máy chưng cất, máy cắt, máy dập v.v…tận dụng tất cả máy móc 
cũ và nguyên liệu thu thập tư các nơi qua những chiến dịch đánh tư sản 
mại bản…Tổ nầy tương đối thành công trong các kế hoạch sản xuất.
Tổ Dược Phẩm
Tuy
 đây cũng là một cơ sở sản xuất dược phẩm, nhưng không được tận dụng. Và
 chỉ làm văn phòng cho một số chuyên viên kỹ thuật chưa được phân công. 
Nơi đây cũng có một phòng thiết kế có nhiệm vụ vẽ sơ đồ và các đồ án kỹ 
thuật dự kiến thành lập trong tương lai.
Tổ Chuyên Viên
Đây
 cũng là nơi quy tụ nhiều “quần hùng” (chuyên viên đi “học tập” về) chưa
 được phân công cụ thể ngoài công việc tư vấn lặt vặt và “đấu láo” với 
nhau, đa số đều bị đặt trong tình trạng lo sợ bị đày đi các vùng kinh tế
 mới.
Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Thành phố
Địa
 điểm nầy đã được trưng dụng vào khoảng 1980. Và một số “cán bộ” khai 
phá ban đầu đã được điều động đi nơi khác. Và các”cán bộ” lãnh đạo sau 
nầy và mãi đến hôm nay (2011) là những người miền Bắc vào chiếm lĩnh. Ủy
 ban Khoa học ngày hôm nay chính là bộ mặt khoa học của thành phố Sài 
Gòn.
Còn một vài sự kiện quan trọng khác cần kể đến trong thời gian khai phóng của Ủy ban Khoa học Thành phố là:
Hội
 đồng Kinh tế Kỹ thuật Thành phố do chính Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải 
làm Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Người kể chuyện đồng thời cũng là Thơ ký 
Hội đồng, có nhiệm vụ nghiên cứu tính khả thi của các dự án và trình bày
 trước hội đồng trong khi xét duyệt, nên biết khá rõ. Các buổi duyệt xét
 diễn ra ở một villa trên đường Đoàn Thị Điểm gần Tú Xương, trước kia là
 Thư viện Hoa Kỳ.
Triển lãm Đệ nhứt chu niên thành lập Trung Tâm 
Nghiên Cứu Sản xuất Thử: Sau một năm hoạt động, Trung tâm cố gắng thực 
hiện những thành quả để trình làng tại trụ sở 101 Nguyễn Du. Công việc 
thu góp thành phẩm, sản phẩm cũng được giao cho Ông Thanh niên đảm 
trách. Và một người phụ tá đắc lực nhứt trong công tác nầy là một giáo 
chức trẻ, hiện là một luật sư ở San Jose. Ngày triển lãm do Tướng Võ 
Nguyên Giáp khánh thành vì ông là Chủ tịch Ủy ban Khoa học nhà nước 
trong giai đoạn nầy. Cần phải nói thêm nơi đây là những thành quả kể 
trên tuy không có “là bao” so với thời kỳ sản xuất của VNCH, nhưng vẫn 
được khen ngợi là những bước “đột phá vĩ đại” của thành phố vừa được 
“giải phóng”!
Khôi phục nhà máy bột ngọt Vị hương tố: Đây là một 
công trình quan trọng đã được chính VVK điều động là bằng mọi giá phải 
khôi phục lại nhà máy. Có hai toán làm việc: Toán thiết kế và cơ khí có 
nhiệm vụ kiểm soát lại máy móc, các ông dẫn và các bồn chứa cũng như rà 
soát quy trình sản xuất sẳn có. Toán nầy do NVS (còn gọi la S. Râu, hiện
 còn ở Việt Nam) và MTT (ở Davis, CA) và – Toán thứ hai là toán chuyên 
viên vi sinh gồm BS Trần Văn Ái, nguyên Giám đốc Viện Pasteur VNCH, TS 
Phạm Văn Hai, và người kể chuyện. Nhà máy Vị hương tố nằm ở Bình Đông 
gần các chà gạo do người Tàu quản lý. Toán vi sinh có nhiệm vụ khôi phục
 lại hai chai chứa men được mang từ Hong Kong về Sài Gòn ngày 23/4/1975.
 Nhà máy dựa theo phương pháp vi sinh, nghĩa là cấy men trong môi trường
 bột tạo ra sự lên men và quá trình sau cùng là bột ngọt dưới dạng dung 
dịch là MSG hay Mono Sodium Glutamate. MSG lỏng sẽ qua các hệ thống ly 
tâm và kết tinh để cho ra MSG dạng bột màu trắng. Cũng cần nói ra đây, 
là người Tàu không muốn nhà máy chứa nhiều men giống, cho nên chỉ gửi 2 
chai men hàng tuần qua Hàng không Việt Nam thời bấy giờ mà thôi. Trên 
nguyên tắc, qua quá trình lên men với men còn “tươi” thì một lít dung 
dịch sẽ cho ra độ 80 đến 100 gram MSG bột. Nhưng vì con men đã để quá 
lâu trong ngăn đá cho nên những mẻ đầu tiên chi cho ra năm xuất khoảng 
30 gram mà thôi. Thêm nữa, nạn tham lam của cán bộ trong giai đoạn nầy 
(có lẽ vì còn  nghèo đói) cho nên những mẻ đầu tiên thay vì được chuyển 
qua dạng bột, “họ” lại báo cáo là hư…để từ đó chuồn ra ngoài thị trường 
dưới sản phẩm rất cần thiết cho giai đoạn nầy là ….xì dầu. BS Ái và TS 
Hai được VVK giữ lời hứa là cho đi chính thức sang Pháp ngay sau khi 
khôi phục nhà máy xong. TS Hai sau mầy mất tại Hoa Kỳ vào năm 2006. Còn 
người kể chuyện không được đi chính thức đành phải vượt biên sang Hoa Kỳ
 sau đó.
Qua các sự kiện liên quan đến việc thành lập Ủy ban Khoa học Thành phố ngày hôm nay, chúng ta rút tỉa được bài học gì?
Những
 suy nghĩ tiếp theo đây là của người viết và xin được chia xẻ với quý 
bạn, hy vọng từ đó gợi ý cho sự phát triển bền vững, ứng hợp với chiều 
hướng toàn cầu hoá của Việt Nam trong tương lai.
·         Trước 
hết, trong giao đoạn giao thời, mọi tiếp cận và đối thoại của người cầm 
quyền và giới chuyên viên của miền Nam còn nhiều cản ngại. Cản ngại 
trong cung cách cư xử qua sự say men của kẻ chiến thắng. Từ đó, đa số 
giới chuyên viên không dám hay không muốn đề nghị một phương cách phát 
triển nào cả, mà chỉ “làm việc” trong tâm trạng thụ động và cầu an. Dĩ 
nhiên, vẫn còn có một số trí thức 30/4, cố ráng cầu cạnh để mong được 
“cấp trên” đoái hoài đến. Và họ đã lầm và đã phải trả một giá rất đắt là
 sự khinh bỉ của bè bạn khắp nơi.
·         Cũng vì là buổi giao 
thời và ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, Việt Nam bị cấm vận cho nên 
nguồn nguyên vật liệu không còn nữa, cho nên không thể sản xuất và phát 
triển các dự án trong khả năng và tầm tay của tầng lớp khoa học của VNCH
 cũ.
·         Lớp cán bộ miền Bắc không tin tưởng thực sự những 
người làm khoa học trong Nam. Sự khác biệt về trình độ và nhận thức khoa
 học không theo kịp đà tiến bộ của thế giới khiến họ bị mặc cảm dù họ 
thuộc thành phần lãnh đạo.
·         Tình hình an ninh trong nước 
thời bấy giờ dưới nhản quan cộng sản, khiến cho họ cần tập trung tầng 
lớp trí thức khoa học để dễ kiểm soát hơn là thực sự khai thác khả năng 
của anh em trí thức trong Nam.
·         Trong những năm hoạt động
 đầu tiên nầy, Ủy ban đã có một tập hợp trí tuệ hơn 100 nhân sự tốt 
nghiệp ở Việt Nam (VNCH), Pháp, Úc, Đức, và Hoa Kỳ… và tuổi trung bình 
vào khoảng 30 đến 40, tuổi của sáng kiến, năng động và tinh thấn đóng 
góp cao độ. Nếu so sánh với các thành quả thu hoạch được trong giai đoạn
 nầy có thể nói là không có hiệu quả kinh tế so với thành phẩm sản xuất.
 Lý do tâm lý có thể là lý do quan trọng nhứt trong cung cách cư xử giữa
 hai đối tác như đã kể trên mặc dù một số trí thức trẻ vẫn còn mang tinh
 thần tích cực trong đóng góp.
Với những điều kiện thuận lợi trong
 việc tập hợp ban đầu như thế, nhưng tại sao tầng lớp nầy lần lượt bỏ 
đi, không tiếp tục hợp tác với chế độ trong công cuộc phát triển Việt 
Nam?
Câu trả lời chung quy gồm các lý do có thể tóm lược sau đây:
·        
 Điều kiện và các cơ sở vật chất là những cơ ngơi chiếm đoạt trong quá 
trình “đánh tư sản” hay được “dâng hiến”, do đó, không thích ứng cho bất
 cứ một dự án sản xuất nào cả vì thiếu máy móc và nguyên vật liệu.
·        
 Thành phố không có chương trình hành động hay kế hoạch phát triển…ngoài
 việc thấy đâu làm đó. Lãnh đạo nghe “báo cáo” nơi nầy, nghe rĩ tai nơi 
nọ…rồi từ đó “chỉ thị” lên phương án làm việc. Các “chuyên viên” chế độ 
cũ từ đó mà …viết dự án, thiết kế nhà máy…nhưng tất cả chỉ trên giấy 
tờ…để có số liệu mà báo cáo lên…trung ương (!)
·         Chính 
sách đãi ngộ đối với trí thức quá bạc bẽo nếu không nói là những lời 
khuyến dụ hào nhoáng bề ngoài không thuyết phục được họ, dù lãnh đạo các
 cấp của CS cố gắng đem tình tự quê hương để khêu gợi lòng yêu nước của 
họ.
·         Trong số trí thức tập hợp được trong giai đoạn nầy, 
vẫn còn có nhiều anh chị có những suy nghĩ hết sức tích cực là cho dù 
người cộng sản mang đi các thành phẩm sản xuất được về Bắc, thì ít ra 
cũng còn lại một số ít để lại cho miền Nam dùng, may ra trong số ít 
người được hưởng đó có bà con mình. Ý tưởng tích cực đó, theo thời gian 
lần lần bị thui chột trong tâm trí những trí thức trẻ. Và quyết định sau
 cùng của họ là đành phải liều mạng bò nước ra đi dưới nhiều hình thức 
như vượt biên, vượt biển hay đi đoàn tụ nếu có điều kiện.
Còn bây giờ, sau gần 26 năm rút kinh nghiệm, Ủy ban Khoa học Thành phố đã thực hiện được những gì?
Việt
 Nam cho đến nay vẫn theo chính sách phát triển Việt Nam trong cơ chế 
thị trường nhưng phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một cơ 
chế đã được cổ súy hàng 36 năm qua, nhưng xin thưa, có thể nói một cách 
khẳng quyết rằng, ngay cả những người hoạch định chính sách ở cấp cao 
nhứt nước, vẫn không thể nào triển khai hay giải thích có tính cách 
thuyết phục cả. Điều đó có nghĩa là chính sách trên chỉ là sản phẩm của 
một số não trạng đã bị đóng băng trong kinh điển cộng sản nửa vời.
Vì
 vậy, Đất và Nước ngày hôm nay phải gánh chịu biết bao dự án bị bỏ dở 
nửa chừng hay dự án treo, hàng loạt “đại công ty”, đại doanh nghiệp quốc
 doanh như Vinashin, Cty Dầu khí, Điện lực, Hóa dầu Dung Quất, v.v…lần 
lượt khai phá sản và để lại gánh nặng cho “Nhà nước”, chính là “cha đẻ” 
của những đại công ty trên!
Hơn 25 năm mở của tiếp thu văn minh và
 kỹ thuật cùng công nghệ tân tiến trên khắp thế giới, đã tiếp nhận biết 
bao viện trợ khắp nơi, thế mà, Việt Nam vẫn không thoát khỏi cảnh nghèo 
đói. (Danh xưng của UBKHTP ngày hôm nay là Department of Science, 
Technology, and the Environment of HCM City (DOSTE), 244 Dien Bien Phu –
 District 3- HCM City- Vie Nam, tel# 84-8-8242-709)
Vì đâu nên nỗi!
Kết kuận…không lời kết
Nhớ
 lại, dưới thời cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính sách cấm 14 ngành 
nghề mà người Trung Hoa không được nắm giữ trong đó có nhiều ngành dự 
phần vào việc phát triển kinh tế quốc gia. Cấm cản nhưng không có chính 
sách thay thế cho nên kinh tế miền Nam trong giai đoạn nầy bị điêu đứng 
một thời gian. Cấm cản nhưng không giam cầm người Hoa.
Để đối lại,
 chính sách triệt hạ tư sản “mại bản” của những người nắm quyền bính 
ngay những ngày đầu sau 1975 tạo ra một sự khủng hoảng toàn diện. Đất 
nước kiệt quệ thậm chí người dân không đủ gạo để ăn! Và đại đa số những 
tư bản Tàu và Việt có khả năng “làm kinh tế” trong các dịch vụ sản xuất 
và phát triển quốc gia hầu hết đều bị cầm tù cho nên tất cả đều bị khựng
 lại.
Sau cùng danh từ “thời kỳ quá độ” đã được rêu rao ầm ĩ trong
 những nằm đầu…đã đi vào quên lãng. Vì sao? Vì mãi đến hôm nay, 36 năm 
qua, chính sách phát triển Việt Nam cũng vẫn còn nằm trong…thời kỳ quá 
độ theo định nghĩa lúc ban đầu.
Phải chăng đây là một chính sách 
không văn bản nhằm mục đích “cào bằng” sự “giàu sang” của miền Nam ngang
 hàng với mức nghèo đói của miền Bắc?
Những sự kiện đã được nêu ra
 trên đây là lời người kể chuyện về những chuyện đã xảy ra vào những năm
 đầu tiên sau 30/4 cho đến giữa kế hoạch ngũ niên của Việt Nam lần thứ 
hai. Hiện tại, sau 26 năm mở cửa, tình trạng phát triển Việt Nam vẫn 
không thay đổi:
Phát triển có kế hoạch trên chỉ giấy tờ, nhưng 
trên thực tế là một sự phát triển…vô kế hoạch. Việt Nam vẫn không “tiêu 
hóa” được tinh thần của việc thiết lập khu chế xuất nhằm mục đích tiết 
kiệm năng lượng, tận dụng nguyên vật liệu, phó sản và phế phẩm để thực 
hiện một dây chuyền liên hoàn sản xuất, chứ nào phải đâu là nơi tập 
trung của một số nhà máy sản xuất “hổ lốn” như trong hơn 80 khu chế xuất
 hiện tại trên khắp miền đất nước.
Gánh nặng nhân sự của bộ máy 
quốc doanh làm trì trệ quốc gia và không phát triển bền vững được vì vẫn
 còn chính sách hồng hơn chuyên thể hiện đâu đó trong các dự án hay kế 
hoạch.
Và kết quả sau cùng hiện tại là môi trường đã bị ô nhiễm có
 thể nói là không còn phương sách nào có thể cứu vãn được từ không khí, 
đất, nước mặt và nước ngầm.
Vì vậy, để kết luận, người viết xin 
trích đoạn bài viết ngắn của TS Nguyễn Quang A để mỗi người trong chúng 
ta cùng suy nghĩ cho chính sách xây dựng quốc gia và trồng người của 
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chất lượng nhân lực của nơi phát triển nguồn nhân lực? 
Nguyễn Quang A
18/05/2011 12:11:10
-
 Ngày 19/4/2011, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã ký Quyết định 
579/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhân 
lực Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020 có hiệu lực từ ngày ký. Ngày 30/4, Công
 báo đã đăng toàn văn Quyết định có tên hết sức quan trọng này.
 Người
 ta quan tâm đến các chi tiết như: Phấn đấu đến năm 2020 đạt được một 
số chỉ tiêu chủ yếu phát triển nguồn nhân lực là: tỷ lệ lao động qua đào
 tạo là 70%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề là 55%; Số sinh viên đại 
học – cao đẳng là 400 sinh viên/10.000 dân; Có hơn 10 trường dạy nghề và
 trên 04 trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế. Chỉ tiêu nâng cao thể lực 
nhân lực, phấn đấu tuổi thọ trung bình của lao động là 75 tuổi, chiều 
cao trung bình của thanh niên là 1,65m, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới
 05 tuổi nhỏ hơn 5%.
Quyết định 579/QĐ-TTg cũng nêu rõ, “thông qua Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam 2011-2020”.
Thế
 rồi ngày 17/5/2011, trang tin điện tử của Chính phủ lại đưa tin “khẩn 
trương hoàn thiện Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực 2011-2020”. Bản 
tin này còn cho biết, “bản Quy hoạch còn xuất hiện nhiều số liệu tổng 
hợp chưa cập nhật, trùng lắp, cách sắp xếp, bố cục còn dài và chưa khoa 
học. Các mục tiêu đề ra còn chung chung, chưa chỉ ra được định hướng và 
giải pháp cụ thể”.
Thật chẳng hiểu ra sao? Gần một tháng trước 
Quyết định phê duyệt chiến lược khẳng định “thông qua” Quy hoạch, nay 
lại bảo “khẩn trương hoàn thiện”. Chẳng lẽ, ngày 19/4 khi ông Phó Thủ 
tướng ký, mới có “dự thảo” quy hoạch mà thôi! Thật kỳ lạ hay khôi hài?
Một
 vấn đề  trọng đại của đất nước, đã được nhắc đi nhắc lại từ 2007 rồi
 2009, tức là sau 3-4 năm mà Quy hoạch vẫn sơ sài. Có lẽ một số cơ 
quan nhà nước, tiêu tiền của dân, nên nhìn lại công việc của mình, xem 
lại chất lượng nhân lực của chính mình.
Cho nên, chẳng hề lạ là 
nguồn nhân lực của chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của 
đất nước. Có lẽ phải xem xét lại chất lượng “nguồn nhân lực” của chính 
các cơ quan lo phát triển nguồn nhân lực cho đất nước?
Mai Thanh Truyết
Viết theo sự chứng kiến của Người Trong Cuộc
http://www.vietthuc.org/2011/05/28/con-d%C6%B0%E1%BB%9Dng-di-d%E1%BA%BFn-%E1%BB%A7y-ban-khoa-h%E1%BB%8Dc-thanh-ph%E1%BB%91/
 
 
No comments:
Post a Comment