Phạm viết Đào - Chúng ta đang sống trong một đất nước, một thể chế mà ngay cả những con người bình thường nhất, ít phải chịu chức phận xã hội cũng có rất hiếm cơ hội, điều kiện để bộc bạch, được chia sẻ với những người xung quanh những suy nghĩ thật lòng trên các phương tiện truyền tin đại chúng; từ con người bình thường đến những người có những chức phận cao, lớn đều quen rèn và tự khép mình trong khuôn khổ tổ chức: tổ chức đảng, các đoàn thể, thanh niên, phụ nữ, phường xã… và cứ cuối năm cuối quý, từ bé cho đến lớn, từ trẻ cho tới già khi bình bầu xếp loại thành viên của tổ chức bao giờ cũng có một mục, mục tự đánh giá về ý thức tổ chức, ý thức chấp hành kỷ luật của cái tổ chức mà anh tự nguyện hoặc buộc phải tham gia…; trong khi đó thì ý thức chấp hành luật pháp lại không phải là thứ lúc nào cũng được đề cao, phổ cập...
Nhà văn Phạm Viết Đào đọc bài tham luận này trong hội thảo sáng 24/12/2012 tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học-Kỹ thuật Việt Nam do Trung tâm nghiên cứu truyền thông phát triển (RED) tổ chức
Đó chính là lý do khi mà Internet phát triển, tạo cửa mở cho mỗi cá nhân có điều kiện giao lưu, giao tiếp và bày tỏ chính kiến với thế giới bên ngoài thì nó trở nên cuốn hút mãnh liệt. Internet đã thật sự tạo nên một cuộc cách mạng về quan hệ xã hội không chỉ đối với một xã hội khép kín, toàn trị như ở Việt Nam mà cả thế giới đã có truyền thống dân chủ cởi mở hơn... Bởi nhu cầu giao tiếp, nhu cầu trao đổi, chia sẻ thông tin, chính kiến, cảm xúc là một nhu cầu không có điểm dừng đối với thế giới văn minh; xã hội càng phát triển, nhu cầu này càng phát triển theo cấp lũy thừa...
Theo một cuộc khảo sát công bố gần đây của tạp chí NEON của Đức được AFP đưa tin; bằng hình thức phỏng vấn thanh niên Đức trong độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi, đã cho kết quả: 18% người Đức trả lời họ thích thú sử dụng Internet hơn là quan hệ tình dục; một số người còn cho biết họ nghiện inernet hơn thuốc lá; trong khi người Đức là một trong những quốc gia tiêu thụ nhiều thuốc lá, có ý kiến còn đề xuất dùng internet để cai nghiện thuốc lá, cai tình dục...
Theo khảo sát, 70% thanh thiếu niên Đức nói rằng họ xem thường xuyên truy cập 10 trang web mỗi ngày, trong khi chỉ có 12% cho rằng theo dõi thường xuyên hơn 25 trang web trực tuyến.
Cuộc khảo sát này được thực hiện do Viện Forsa, bắt đầu từ một mẫu đại diện của 1016 người, mỗi người có một kết nối internet.
Qua những dữ liệu trên cho thấy đang tồn tại sự cách bức giữa nhu cầu của công chúng với các phương tiện thông tin truyền thống ngay cả với cả những quốc gia cởi mở như Đức; sức hấp dẫn vượt trội của Internet trong đó các trang mạng xã hội là một trong những yếu tố cấu thành sinh thể Internet, xã hội internet hay còn được gọi là cộng đồng mạng.
Trước hết chúng ta hãy phân định về sự khác biệt giữa báo chí, phương tiện thông tin đại chúng với các trang mạng xã hội; một cộng đồng tự sản, tự tiêu sản phẩm của mình... Về nguyên lý: báo chí là cơ quan đầu mối thu thập và tán phát thông tin, kinh doanh thông tin; báo chí vừa có quyền năng, phương tiện và cơ sở vật chất nhất để thu thập thông tin, sàng lọc thông tin, tổng hợp thông tin như một loại hình doanh nghiệp đặc thù thế mà lại không đáp ứng xuể nhu cầu của người tiêu thụ khiến các trang mạng xã hội chen chân vào...
Trong khi đó các trang mạng xã hội phần lớn do các cá nhân dựng lên nhằm mục đích chủ yếu là để thỏa mãn cái nhu cầu trình bày, chia sẻ những suy nghĩ thật, những cảm nghĩ thật và những điều mắt thấy, tai nghe của chủ trang mạng với cộng đồng mạng. Thông tin từ các trang mạng xã hội (blog, trang Web cá nhân) chỉ là những nguồn tin cá lẻ, cá nhân tùy hứng, ngẫu hứng thế nhưng không ít trang lại cạnh tranh nghiêng ngửa với các tờ báo điện tử chính thống có cả ban biên tập và cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật dồi dào...
Đứng về vấn đề thu thập, sàng lọc thông tin thì báo chí mới là cơ quan đầu mối, có điều kiện hơn nhiều so với các trang mạng xã hội; Còn như đặt vấn đề thu thập, sàng lọc thông tin từ các trang mạng xã hội thì chỉ cần bộ phận biên tập của các tòa soạn báo có kinh nghiệm, tinh nhạy, mẫn cảm là có thể lôi kéo, tập hợp xung quanh mình một đội ngũ thông tín viên cung cấp nguồn tin cho bản báo...
Theo tôi: điều quan trọng nhất, điều mà báo chí cần phải thường xuyên tiếp nhận, bổ sung nguồn dưỡng chất, sinh khí cho tờ báo của mình từ nguồn các trang mạng xã hội không phải là nguồn tin, số lượng và sự đa dạng, đa chiều của thông tin mà ở vấn đề mà báo chí cần phải nghe nghe ngóng, thu thập từ các trang mạng xã hội: loại vấn đề gì đang nổi lên được người đọc quan tâm, được các trang mạng xã hội lao vào bàn tán, giao đãi, đưa tin nhiều... Đây chính là các thế mạnh, sở trường đích thực của các trang mạng xã hội. Bởi vì so với các tòa soạn báo các trang mạng xã hội thường viết lên những cảm nghĩ, xúc cảm đích thực tươi mới không thể không viết ra và không thể không đưa lên mạng để chia sẻ với cộng đồng của từng cá nhân... Nói cách khác: chúng ta phải tìm cơ chế, giải pháp để các nhà báo khi viết tin bài được bộc lộ chính kiến của mình, cảm xúc của mình nhạy bén như các blogger, có như thế báo chí mới gần với độc giả, mới truyền tải, cập nhật được hơi thở gấp gáp của đời sống xã hội?
Một biên tập viên, một nhà báo có nghề và có kinh nghiệm là người phải biết dò đoán, “đánh hơi” dư luận xã hội thông qua các trang mạng xã hội, thông qua các “đặc tình” trong lĩnh vực thông tin để trên cơ sở đó mà tham mưu, hoạch định chiến thuật, chiến lược thu thập, khai thác thông tin và bình luận định hướng dư luận xã hội cho bản báo... Một trang mạng xã hội dù nhạy bén đến đâu cũng không thể thu thập được nguồn tin phong phú bằng các ban biên tập; thế nhưng mặc dù nhiều khi họ chỉ ăn theo thông tin của các tờ báo để rồi họ, các trang mạng xã hội đã vượt lên các tờ báo nhờ vào khả năng đoán định chiều hướng thông tin, bình luận, phân tích, mổ xẻ thông tin... là những điều mà độc giả cần, mong đợi...
Hiện nay, các trang mạng xã hội Việt Nam đang cạnh tranh khốc liệt với các tờ báo trong đó có báo điện tử về hướng này; trong rất nhiều trường hợp giống như việc phát minh và khai thác chiếc máy tính điện tử: Liên Xô mới là quốc gia đầu tiên phát minh ra máy tính nhưng đưa vào ứng dụng rộng rãi, cải tiến nó và thu lời, làm giàu từ phát minh này lại là người Mỹ... Hiện nay một số trang mạng xã hội có chỗ đứng sâu trong lòng cộng đồng mạng, chiếm được tình cảm là do khả năng cải biến, xử lý, “tái chế”, phóng đại thông tin chứ không phải ở cái khả năng săn tin?
Ở đây do báo chí Việt có một số hạn chế do điều kiện khách quan: Việt Nam không có báo tư nhân, mỗi tờ báo kể cả báo điện tử đều là tiếng nói của một cơ quan cấp Bộ và Hội đoàn thế có vai vế; tiếng nói, tôn chỉ mục đích đã được mặc định kể cả báo Nhân Dân có đề thêm vào Tiếng nói của nhân dân cũng chỉ là đề mang tính xã giao, hình thức, đãi bôi... Do nét đặc thù này của đời sống báo chí Việt Nam như vậy nên dẫn tới tình cảnh người dân Việt phải cam chịu cái sự đói khát, khô hạn dài dài về nhu cầu chia sẻ thông tin, chính kiến, xúc cảm cá nhân... Chưa kể có lúc những ý kiến trái chiều với một cơ quan chưng năng nhà nước, chức năng nào đó bị xem như là một thứ hành vi vi phạm Luật hình sự và bị kỵ húy thậm chí còn bị truy cứu... Do vậy, khi internet ra đời, tạo điều kiện cho cư dân mạng Việt Nam có một mảnh đất mới, một khu đất phần trăm tùy ý sử dụng để góp phần tăng gia thêm khẩu phần thông tin và chia sẻ chính kiến. Do đó nên đã xuất hiện rất nhiều cây viết, chủ nhân của các cư dân mạng nổi tiếng hơn cả nghề tay phải của mình, họ là nhà báo nhưng người đọc biết nhiều về họ hơn nhờ viết blog chứ không phải viết báo; có nhà báo bỏ cả nghề báo để viết blog; có ông chẳng liên quan gì đến nghề báo tự dưng nhảy ra làm trang mạng có sức lôi cuốn người đọc, thách thức các tổng biên tập báo chính thống khiến cho Huy Đức một nhà báo kiêm một blogger có tiếng đã phải thốt lên: Báo chính thống nói chuyện Basam; Còn Basam lại đưa chuyện chính thống... Rất nhiều các hãng thông tin nước ngoài khi một tìm hiểu dư luận xã hội về một vấn đề nào đó lạ thường tìm đến các blogger hơn là tìm đến những nhà báo, nhà quan sát chính trường có nhãn mác, bằng cấp và giấy phép hành nghề...
Sở sĩ xảy ra tình trạng trên là do các trang mạng xã hội có điều kiện cho phép chủ nhân được giãi bày những suy ngẫm, những quan ngại, những xúc cảm cá nhân; nếu một nhà báo khi đặt bút viết về một vấn đề nào đó thì điều mà anh quan tâm đó không phải là độc giả đầu tiên chắc phải là hàng thứ 2, số 1 đó là liệu cái tin bài mình viết ra có được TBT đăng cho không? Nhiều phóng viên đã phải làm cái việc trước khi quyết định bắt tay vào lấy tin, viết bài thì đã phải trao đổi trước với lãnh đạo báo... Như vậy, độ nóng, độ tươi mới cập nhật và dấu ấn cá nhân của sự phát hiện của tin bài đã bị gián đoạn, cách bức so với một một blogger hay một ông chủ một trang Web cá nhân. Mỗi khi chủ của các trang mạng xã hội thấy vấn đề tác động vào họ buộc họ phải đặt bút viết là lập tức họ bắt tay vào ngay; trước bàn phím của họ là cá nhân của họ được vui sướng giãi bày cảm xúc của mình qua con chữ và độc gia quen thuộc đang chờ họ...
Do vậy nếu báo chí muốn sàng lọc thông tin, nhất là loại thông tin về các vấn đề mà xã hội độc giả quan tâm thì không đâu bằng cập nhật những trang mạng các nhân có lượng độc giả đông, ổn định... Thực ra, không chỉ báo chí mà theo người viết bài này được biết: một số cơ quan chức năng như công an, tuyên giáo, các cơ quan hành chính cũng đã trở thành độc giả của nhiều trang mạng cá nhân có tên tuổi; họ vào các trang mạng này không phải vì tò mò, cũng không phải vì đói thông tin vì thông tin trên các trang mạng xã hội thường là những thông tin cần phải kiểm chứng, sàng lọc; Qua các thông tin trên các trang mạng xã hội, chắc các cơ quan chức năng muốn đo kiểm xem phản ứng, những diễn biến, xu thế chính kiến xã hội đang quan tâm, đổ xô vào các vấn đề gì, thậm chí các trang mạng xã hội còn là nơi do lường, kiểm chứng lòng dân trước các chính sách, chủ trương mới ban hành của nhà nước, của các đoàn thể xã hội... Và ở khía cạnh này các trang mạng xã hội có độ tin cậy cũng như độ nóng của sự tươi mới cao hơn các cơ quan ngôn luận báo chí...
Một tờ báo muốn tạo cho mình chỗ đứng bền vững trong lòng độc giả thì phải đón đầu cho được những chiều hướng thông tin mà độc giả quan tâm, những vấn đề xã hội đang gây bức xúc độc giả và khi báo chí xông vào với sức mạng về tay nghề, phương tiện sẽ lôi kéo, định hướng được độc giả...
Ở Nhật tại những xí nghiệp lớn đông công nhân làm việc, nhiều ông chủ cho xây những phòng giải trí, ở trong đó có nhiều bức tượng bằng cao su có dáng hình và kích cỡ giống, đúng như các yếu nhân đang quản lý nhà máy... Nhà giải stress này nhằm mục đích tạo điều kiện cho công nhân của nhà máy, nếu họ có điều gì đó bất bình với ông chủ hoặc ai đó có liên quan tới công việc hàng ngày; họ có thể vào đấy đấm đá thỏa thích người mà họ cho là đang ức hiếp họ... Các phòng xả stress này đều có hệ thống ghi âm, ghi hình để các ông chủ theo dõi không nhằm mục đích trả thù, đối phó với người phản ứng mình mà để điều chỉnh các giải pháp, phương cách quản lý...
Quản lý một xã hội cũng giống như một xí nghiệp, một nhà máy, một gia đình... cho dù thiết kế ra được một guồng máy quản trị, hoàn hảo đến đâu cũng khó lòng làm thỏa mãn hết thảy, làm cho mọi thành viên có nhu cầu, sở thích, sở trường khác nhau đều vui vẻ cả; Do vậy, các phương tiện thông tin đại chúng là cái kênh có nhiệm vụ thông tin giúp các tầng lớp trong xã hội có điều kiện để hiểu nhau, giao lưu, giao cảm với nhau để trên cơ sở này mà tìm ra những được tiếng nói chung, tránh cho xã hội những sự dồn toa, giật cục dẫn tới đổ vỡ trong các mối quan hệ...
Nắm bắt các luồng thông tin, dư luận xã hội để trên cơ sở này mà hoạch định các chính sách xã hội là điều mà bất kể một thể chế quản trị văn minh, tiến bộ nào; Điều này thực ra kể cả Việt Nam chúng ta từng đã thiết lập có điều hiệu quả và chất lượng của nó tới đâu thì đó là điều mà chúng ta cần suy tính cân nhắc... Việc điều chỉnh xã hội bằng sự minh bạch thông tin, chính kiến sẽ văn minh gấp vạn lần so với sử dụng dùi cui và guồng máy cảnh sát...
Hiện nay chúng ta có hệ thống hơn 800 tờ báo và Đài truyền hình trung ương đã được đầu tư từ nhiều nguồn trong đó có ngân sách nhà nước về trang thiết bị kỹ thuật để làm việc đưa tin, thông tin, bình luận, phân tích, kiến giải thông tin nhằm định hướng dư luận xã hội; Thế nhưng có thể do những nét đặc thù của cơ chế quản lý, quản trị của hoạt động này nên chất lượng của công tác thông tin giúp cho khâu quản trị xã hội của nhà nước hiệu quả không cao, tác động vào dự luận xã hội còn hời hợt… Đang có một khoảng cách, một bức vách ngăn giữa cơ quan thông tin, những người làm nghề thông tin ( các nhà báo ) với xã hội…
Xin lấy ví dụ nạn nợ xấu do quá nguồn tiền ngân hàng đổ vào thị trường bất động sản phát triển cung vượt cầu quá lớn? Đây không phải là lần đầu Việt Nam và thế giới đã rơi vào thảm cảnh này; chúng ta không thiếu những cơ quan chuyên nghiên cứu, dự báo thị trường trong đó có thị trường bất động sản... Chúng ta có hàng trăm tờ báo chuyên ngành về kinh tế, hàng trăm tờ báo không chuyên về thị trường nhưng hàng ngày vẫn dành các chuyên trang cho vấn đề kinh tế-thị trường; thế tại sao lại không có được một phản biện, dự báo nào can ngăn các nhà đầu tư để tình hình bất động sản lao vào thảm họa như hiện nay? Chỉ qua vụ thị trường bất động sản thôi đã thấy cái cơ chế thu thập, sàng lọc, tổng hợp và xử lý thông tin của chúng ta có vấn đề; Điều này không chí đối với báo chí mà cả các cơ quan hoạch định chính sách tầm vĩ mô lẫn vi mô...
Trong cuộc sống hàng ngày, chỉ hai con người với nhau thôi, nếu không có sự giãi bày, bộc bạch với nhau những chỗ uẩn khúc, những khúc mắc, tức nói nôm na không sống thật lòng với nhau thì họ khó lòng có được tình bạn lâu bền, họ sẽ không có được những hành động chân thành, thiết thực, chia sẻ, động viên, an ủi nhau trong những lúc khó khăn... Hiện nay các cơ quan thông tin đại chúng không làm tròn phận sự vì chưa sống thật lòng, chia sẻ thành thật với độc gia thông qua việc đưa tin và thông tin, bình luận, định hướng thông tin với độc giả... Đó chính là lý do khiến cho các mạng xã hội ra đời… Các trang mạng xã hội đang gánh vác cái nhiệm vụ nặng nề đó là việc bù đắp những phần thiếu hụt, phần què quặt của cộng đồng thông tin chính thống… Thử vào các đài truyền hình và các phương tiện chính thống mà xem: thấy xã hội chúng ta hoàn thiện êm đẹp một cách giả tạo, gượng gạo…
Rất may trong hàng chục năm gần đây do sự bùng nổ của phương tiện Internet đã tạo điều kiện có rất nhiều cá nhân, blogger đã nghiễm nhiên biến thành những nhà báo có đông người tìm đến giống như những tờ báo những tờ báo có nhãn mác và có giấy phép hoạt động nghề do Bộ Thông tin-Truyền thông cấp... Hiện nay một số trang mạng xã hội riêng về các chủ đề thông tin gần với các tờ báo chuyên ngành về kinh tế-xã hội hàng ngày đã thu hút tới dăm ba vạn lượt truy cập; số trang mạng này ở Việt Nam cũng đã lên tới hàng chục trang mặc dù hoạt động tự phát, chưa chuyên nghiệp về mặt kỹ thuật… Các blogger đã nơi khỏa lấp phần nào cái thiếu hụt này của các cơ quan thông tin chính thống đã gây ra cho xã hội thông tin Việt Nam… Thử hình dung nếu không có các trang mạng xã hội mặc dù bị chèn ép đủ đường thì làm sao người dân và kể cả các cơ quan chức năng biết được thực chất về cái mặt trái của vũ cưỡng chế đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng, Văn Giang ở Hưng Yên và nhiều vụ khác… Các cơ quan chức năng vào cuộc giải vụ này theo tôi thực chất là do sức ép của các trang mạng xã hội chứ khó tin là do các bộ phận tham mưu giúp việc đi xe sang, hưởng lương cao tham mưu, đề xuất…
Bản thân tôi là người ham viết blog, mới nghỉ hưu từ 1/6/2012, trang của tôi bị đánh sập 3 lần và không biết ai phá; rất nhiều lần trực tiếp được mời lên yêu cầu giải trình các nội dung, quan điểm cũng như trách nhiệm hành chính (vì tôi là công chức) và trách nhiệm trước luật pháp về những thông tin tôi nêu về những vấn đề tôi viết ra... Tôi đã giải thích, tranh luận sòng phẳng, minh bạch rằng: những điều tôi viết ra không vi phạm 19 điều đảng viên không được làm vì tôi là đảng viên; Tôi không vi phạm luật pháp thông tin (Luật Báo chí và các văn bản có liên quan)... Tôi là hội viên Hội Nhà văn VN, hội viên Hội Nhà báo VN, thiên chức của tôi cũng giống như anh nông dân, phải có cày và ruộng cho chúng tôi cày cấy; Khi nhà nước thừa nhận cho phép bằng luật pháp hoạt động của những hội này thì nhà nước phải chịu trách nhiệm bảo hộ công việc của chúng tôi, những cư dân hoạt động có thẻ khi chúng tôi không làm gì vi phạm luật pháp... Có ý kiến bác lại: Sao không đưa các ý kiến đó cho các báo mà lại đưa lên mạng; tôi trả lời: nếu đưa tới báo thì báo không đăng; còn gửi cho những người có trách nhiệm, cơ quan có trách nhiệm có liên quan thì tôi không muốn mang tiếng là người đi khiếu kiện, xin-cho... Tôi đề xuất: Hay các ông lập ra một trang mạng tạo cơ chế cho một diện hẹp nào đó được đọc, các ông quản lý để chúng tôi viết trình bày chính kiến của mình: Điều nào sai các ông phản bác, điều nào đúng để những người có trách nhiệm tiếp thu; chúng tôi cũng chỉ mong có thế, vì không có nơi vui vẻ tiếp nhận nên chúng tôi phải tung lên mạng, lên trời…
Tóm lại, cho rằng hiện nay so với báo chí chính thống thì các trang mạng xã hội có điều kiện bộc lộ chính kiến của người viết hơn; vấn đề mà tôi đề cập, kết lại: làm sao để các nhà báo được sống hết mình với tin bài của mình như các trang mạng xã hội, có như thế báo chí mới góp phần hữu ích vào đời sống xã hội… Vấn đề này nó vượt ra ngoài phạm vi cuộc hội thảo này vì nó vướng vào cơ chế, chính sách; Cuộc hội thảo này chỉ bàn tới một vấn đề thuộc phạm vi nghề nghiệp thông tin của báo chí. Tôi muốn bàn tới cái gốc của vấn đề đó là cơ chế-chính sách quản lý thông tin báo chí thuộc trách nhiệm của Bộ Thông tin-Truyền thông; Để phát biểu điều này phải là cuộc hội thảo do Bộ Thông tin-Truyền thông tổ chức và chủ trì... Cách đây không lâu, tôi có đọc văn bản soạn thảo về Nghị định Internet sửa đổi, tôi thấy vô lý vì trong đó có một dòng ghi đại ý: thông tin báo chí mới là chính thống, hợp pháp còn thông tin trên mạng xã hội là không chính thống... Bộ TT-TT cứ quy định còn người đọc người ta cứ vào các trang mạng xã hội để đọc, các hãng thông tấn nước ngoài có uy tín vẫn tiếp cận các blogger để lấy tin vậy thì cái chính thống mà Bộ Thông tin Truyền thông quy định đó ai nghe, ai theo, ai tin và tin ai?
Nếu không bàn tới cơ chế chính sách giải phóng sức sản xuất cho các nhà báo được hành nghề, bộc lộ chính kiến của mình như các blogger thì nếu có tờ báo nào đó mời tôi viết bài tôi cũng lại viết như các nhà báo, nếu muốn được đăng… Từng là người tham gia quản lý báo chí, thực ra ở ta báo chí vướng luật phần nhỏ vì luật pháp lĩnh vực này đang sơ lược và tù mù, báo chí ở ta đang bị chi phối bới các định hướng của các cơ quan quản lý tuyên giáo; mà định hướng theo kiểu kiêng kỵ những vấn đề nhạy cảm thì các nhà báo không biết đâu là lần…
(Tham luận đọc tại hội thảo sáng 24/12/2012 tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học-Kỹ thuật Việt Nam do Trung tâm nghiên cứu truyền thông phát triển ( RED ) tổ chức...)
Từ trái sang phải: Ông Lưu Đình Phúc Trưởng phòng Quản lý Báo chí Cục Báo chí; Nguyễn Hữu Vinh (Chủ blog Basam), PGS-TS Đoàn Thế Hanh (Tạp chí Cộng sản) và ông Trần Nhật Minh-Giám đốc RED...
No comments:
Post a Comment