Hoàng Thanh Trúc “Đoạn Trường” khi người ta chạm đến từ này, thường nghĩ tới một nổi đau… rất đau trong cơ thể, đôi khi làm mất đi một con người,điều này tưởng như không lạ khi sống chết là qui luật bất biến của nhân loại. Tuy nhiên, có những nổi “Đoạn Trường” mà sự đau đớn mất mát ấy lại không là niềm riêng khi tự nó lan tỏa làm quặn thắt, ray rức, tiếc nuối, không nguôi cho nhiều lắm, những trái tim nhân bản hay rung lên vì nhân nghĩa ở đời...
Bốn mươi tám năm, thời gian đủ để xóa nhòa, trả một hình hài về với cát bụi nhưng bóng dáng nhân ảnh của riêng một con người mà cứ đến ngày 2/11 hàng năm có rất nhiều đồng bào của con người ấy trong và ngoài nước tưởng nhớ ngậm ngùi tiếc thương trong niềm đau như một nổi “đoạn trường”. Đúng như vậy ! Ông là Ngô Đình Diệm, cố Tổng Thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa, miền nam Việt Nam.
Có rất nhiều tư liệu chuyển tải về biến cố như định mệnh của anh em và cố Tổng Thống này rồi. Thêm vài ba ngàn chử trong một trang viết nữa cũng chỉ như là cơn gió thoảng, phủi một ít bụi thời gian có vô tình đọng trên nhân ảnh ấy để đồng bào thanh niên trẻ Việt Nam trong và ngoài nước lớn lên sau này (chưa rỏ lắm về quá khứ) định hình cho rỏ hơn về một nhân cách lớn liên quan đến vận nước một thời, mà không phải lúc nào cũng được diễn giải cho đúng và trung thực dưới thể chế Cộng Sản, kẻ thù của vị Cố Tổng Thống trước kia, hiện nay còn tại vị.
Khi luận anh hùng cổ nhân hay xem nhân cách,muốn vinh danh một giá trị, cần thiết một biện minh trong quang minh chính trực trên cái nền của “sự thật là chân lý”. Trong một khoảnh lặng nào đó chúng ta tạm quên đi những quân và nước cờ trên bàn cờ chính trị đầy phức tạp mâu thuẩn lúc bấy giờ để hiểu riêng và sâu hơn về hai nhân cách của hai con người, khởi đầu tạo nên hiện trạng tình thế của dân tộc Việt Nam chúng ta hôm nay:
Chủ tịch Nước, CT/ đảng CSVN,Hồ Chí Minh, Miền Bắc và Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Lãnh Đạo đảng Cần Lao Nhân Vị Miền Nam VN.
Phần mộ của TT/ Ngô Đình Diệm (không được ghi tên) chỉ được ghi chữ “Huynh” là Anh để phân biệt với phần mộ kế bên ghi chữ “Đệ” của người em là Ngô Đình Nhu.
Cả hai đều qua đời, từng là nguyên thủ quốc gia – Nói theo quan niệm tâm linh dân gian: Người ta khi “sống có mái nhà, chết có nấm mồ” ẩn dụ tất yếu cho sự thành đạt chuẩn mực trong đạo đức của mỗi con người,bên cạnh đó một biệt lệ cho sự trọng vọng để nhớ ơn công lao to lớn để lại cho đời của cá nhân ấy mà nơi yên nghĩ cuối cùng của họ sẽ bề thế hay đơn sơ, chúng ta hãy ngắm nhìn nơi yên nghĩ của hai cựu nguyên thủ một thời, miền Bắc và miền Nam:
Ngoài lòng dân và di lụy hậu quả để lại chứng minh thì không ai có quyền thay lịch sử để đặt lên bàn cân rồi tự cho phép mình định đoạt trọng lượng những hậu quả hay công lao của những con người từng là lãnh đạo quốc gia một thời ấy, lại càng không thể chủ quan duy ý chí vì ý thức hệ tư tưởng hay khác biệt chính kiến mà bỏ qua phạm trù đạo đức để nâng cao hay hạ thấp, tôn vinh những giá trị không có thật của những con người liên quan đó cho những mục đích thiếu “quang minh chính đại”.
Cố Tống Thống Ngô Đình Diệm xuất thân từ một trường dòng Công Giáo với tâm nguyện ban đầu sẽ là một Linh Mục, nhưng thời cuộc và ảnh hưởng gia đình khiến ông thay đổi khát vọng, ông làm quan tới chức Thượng Thư bộ Lại dưới triều vua Bảo Đại. Ông có một quá trình chống pháp bị thực dân Pháp bắt giử tù đày ở Tuyên Quang, ông từng lưu vong tránh né sự săn lùng của thực dân Pháp ở hải ngoại, nhiều nơi như Nhật, Pháp,Ý và Hoa Kỳ. Sau hiệp định Geneve đất nước chia đôi, tháng 6/1954 ông là Thủ Tướng trong chính phủ Bảo Đại,
Trong thời gian ông ở Hoa Kỳ quan hệ giữa ông và chính phủ Mỹ được thiết lập nên khi ông làm thủ tướng thì cũng là lúc Hoa Kỳ thay đổi quan điểm, tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower gửi công hàm chính thức cho thủ tướng Ngô Đình Diệm thông báo từ đây chính phủ miền Nam Việt Nam nhận viện trợ trực tiếp từ chính phủ Hoa Kỳ chứ không thông qua nhà đương cục Pháp như trước là một cột mốc quan trọng (Wikipedia). Ông Ngô Đình Diệm cho rằng đây là cơ hội duy nhất cho miền Nam Việt Nam tranh thủ sự ủng hộ của Hoa Kỳ giành lại độc lập thực sự từ tay thực dân Pháp sau thế chiến II muốn tái cấu trúc lại sự bảo hộ ở Đông Dương dù trong hiệp định Geneve không chuẩn thuận điều này, và ông nhất định thực hiện mục tiêu đó một cách dũng cảm và kiên trì hiếm có.
Chỉ sau vài tháng nắm quyền thủ tướng, tháng 12 năm 1954 ông bãi bỏ quyền phát hành giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương thực dân Pháp, từ đó giấy bạc lưu hành trên lãnh thổ miền Nam sẽ do Ngân hàng Quốc Gia VN phát hành và cục hối đoái giao cho chính phủ miền Nam Việt Nam quản lý. Tiếp đó ông cương quyết yêu cầu chính phủ Pháp trong vòng năm tháng phải thực hiện việc chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam mọi công tác điều hành của Quân đội, Quốc gia Việt Nam sẽ không còn phụ thuộc vào bộ chỉ huy quân sự Pháp.
Có thể nói rằng vì độc lập của miền Nam VN, cố tổng thống Ngô Đình Diệm chống thực dân Pháp kịch liệt không thua kém bất cứ người CS nào kể cả ông HCM. Việc ông thành công khi ra sức ổn định tình hình chính trị tại miền Nam lúc bấy giờ ví như một “thuyết khách” có đủ bãn lĩnh để bình định được các “sứ quân” của nhiều thành phần vũ trang Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài, (vốn là các tổ chức mà lúc ấy bị thực dân Pháp lợi dụng đứng phía sau hỗ trợ nhằm chống lại ông) mà không phải tốn nhiều xương máu, để củng cố cho một nền Độc Lập còn non trẻ của Miền Nam mà thực dân Pháp chưa muốn từ bỏ, là một công lao không thể phủ nhận. Sau khi quốc trưởng Bảo Đại bị phế truất, chính thể mới Việt Nam Cộng Hòa được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 và ông được bầu làm Tổng thống. Hai năm sau, 1957 ông có chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ lần đầu tiên với cương vị tổng thống của Việt Nam Cộng hoà.
Tổng thống Mỹ Eisenhower đón TT. Ngô Đình Diệm tại sân bay quốc tế Washington Dulles, 8/5/1957
Để chống lại ảnh hưởng chủ nghĩa CS ngoại lai, ông thành lập đảng “Đảng Cần Lao Nhân Vị”, với một học thuyết hướng nhân dân miền Nam đến gần hơn với giá trị của Chân, Thiện, Mỹ trên cái nền "Tam Nhân" gồm: Gia đình, xã hội và quốc gia, phù hợp với truyền thống Á Đông (Wikipedia). Nó khác biệt hoàn toàn với chủ nghĩa XH/quốc tế Cộng Sản.
Có rất nhiều những phân tích nhận định tương phản khác nhau về các chính sách mà cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã chủ trương để xây dựng nền móng cho nền dân chủ đệ nhất Cộng Hòa. Tuy nhiên nếu bình tâm khách quan hơn thì khó có ai khe khắt để đòi hỏi một sự hoàn thiện hơn nữa cho một chính sách khuôn mẫu tổng quát lý tưởng chỉ trong một thời gian 6 năm chấp chính ngắn ngủi (từ cương vị Tổng Thống) trong một quốc gia chính trị rối ren vừa thoát vòng nô lệ đang trong tầm “ngắm” đe dọa của nanh vuốt chủ nghĩa CS – Rất giản đơn, để bất cứ ai “than phiền” về điều này hãy nên nghĩ lại. Cùng thời điểm ấy (1955-1956) tại miền Bắc VN, ông Hồ Chí Minh và CN/CS đang ở cao điểm tắm máu dân tộc với gần 172.000 lương dân vô tội nằm xuống (CCRĐ). Ai có đủ can đảm để nói rằng: Điều đó sẽ không xảy ra với miền Nam nếu không có vĩ tuyến 17, hiệp định Geneve và Chính Phủ Ngô Đình Diệm chận lại ? Cho đến tận hôm nay hàng triệu hậu duệ đồng bào giáo dân Công giáo của mấy chục giáo xứ dọc QL20 từ Sài Gòn, Biên Hòa đi Đà Lạt vẫn chung thủy xem vị cố Tổng Thống và gia đình này là một ân nhân, khi họ bỏ lại quê hương từ miền Bắc trốn chạy CS về phương Nam (1954) được chính sách nhân ái của nền đệ nhất Cộng Hòa nâng đỡ chọn lựa những vùng định cư đất đai màu mỡ nhất dọc tuyến Quốc Lộ cho họ để tạo dựng một cuộc sống trù phú mà sau khi đánh chiếm miền Nam những người CSVN chứng kiến cũng phải ngỡ ngàng !.
Cái điệp khúc mà những người CSVN cứ tuyên truyền lập đi lập lại “Luật 10/59, Diệm đã lê máy chép khắp Miền Nam…” nó hoàn toàn tương phản, bi hài vô cùng với những hình ảnh khủng khiếp còn lưu lại trong ký ức và trái tim của nhiều vị lão nông tri điền giờ này còn sống tại miền Nam: Khi những người nông dân nghèo không cục đất chọi chim, buổi sáng còn mừng rưng rưng nước mắt, nhận mảnh đất và tấm bằng khoán được trao tặng từ chính sách “Người Cày Có Ruộng” của chế độ Ngô Đình Diệm thì sáng hôm sau người ta phát hiện chính những người nông dân đó bị trói tay trên cọc tre giữa mãnh ruộng chưa có luống cày mới nhận của mình mà đầu lìa khỏi cổ bởi mã tấu “Việt Công” trong đêm, trên lưng áo ghim mảnh giấy viết tay nguệch ngoặc: “bản án dành cho kẻ hợp tác với Diệm” !?
Với những thủ phạm gây nên tội ác mà lương tâm phải nhức nhối tương tự như thế này trong luật hình sự hiện nay của CHXHCNVN có ghi “cần tử hình để cách ly khỏi xã hội” thì thay vì gọi là “máy chém” mọi người trung thực có thể gọi một tên khác là: “Máy Thực Thi Công Lý” mà không quá đáng chút nào!
Mọi chính khách hay lãnh tụ khi dấn thân đều có trong tim mình một lý tưởng, khát vọng, hay hoài bão mà khi thành công, giá trị thành đạt ấy đôi khi tùy thuộc rất nhiều từ nhân cách và tri thức.
Sinh ra lớn lên trong một gia đình nề nếp công giáo toàn tòng, làm quan thượng phẩm, tham chính, bôn ba hải ngoại và về nước lãnh đạo nhân dân miền Nam, trong phạm trù đạo đức người ta không tìm thấy bất cứ một nhược điểm nào đáng phê phán từ nhân thân của vị cố Tổng Thống này. Là một người Công giáo toàn tâm lấy đức tin, lời răn từ Chúa làm chuẩn mực trong mọi khía cạnh cuộc đời và cuộc sống thì làm thế nào để ông vương lại tội ác hay nợ máu với nhân dân ? Có thể lòng người là một góc khuất, nhưng khởi đi từ một ước nguyện là Linh Mục thì thật khó lòng cho một võ đoán Ông củng cố quyền lực cho phồn vinh chính mình ở tuổi 60 chưa lập gia đình? nếu có, một phần nào cho thân tộc mà hậu trường chính trị từng bàn cãi! Nhưng vượt lên trên tất cả là lòng yêu nước chân phương, giành lấy độc lập cho bằng được, ổn định trật tự chính trị miền Nam, tất cả nội lực quy về một mối xây dựng một nền cộng hòa vững chắc để chống lại chủ nghĩa cộng sản phía Bắc đang chực chờ bên kia bờ vĩ tuyến 17.
Tuy nhiên, dù không duy tâm nhưng như là định mệnh, cái giá mà anh, em ông phải trả cho sự Độc Lập sao đau đớn vô cùng, dù quân đội Mỹ và đồng minh có mặt tại VN là điều tất yếu cho sự an toàn của miền nam VN và toàn vùng Đông Nam Á trước hiểm họa CNCS, bởi hơi nóng của cuộc chiến quốc cộng Nam Bắc Triếu Tiên lúc ấy còn nóng hổi.
Ông đã nằm xuống khi lịch sử VN bắt đầu một trang mới đẫm máu và nước mắt gần ba triệu người hy sinh kéo dài hơn mười năm sau do ông Hồ Chí Minh và CSVN gây nên. Ngưới ta khẳng định: Nếu không có bước chân những người CSVN vượt vĩ tuyến 17 vào Nam, quân Mỹ, có mời cũng không vào miền Nam làm gì! thì Ngô Tổng Thống không bị “bức tử” và ông sẽ như Tổng Thống Tưởng Giới Thạch (Đài Loan) Lý Quang Diệu (Singapore) hay Lý Thừa Vãn (Hàn Quốc) đưa miền Nam VN thành “Rồng” cất cánh như các nước nói trên lâu rồi.
Đó là khái quát của một phận người nằm trong ngôi mộ vô danh – và đây một khái quát khác của một con người nằm trong “lăng mộ vinh danh”.
Ông Hồ chí Minh:
Ngày 12 tháng 6 năm 2007, giữa công viên quốc gia, gần tòa nhà Quốc Hội Hoa Kỳ, Tổng thống George W. Bush cắt băng khánh thành Đài Tưởng Niệm nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản (ảnh trái). Xung quanh bục tròn tượng đài người ta đọc thấy tên năm thủ phạm chính: Stalin – Lenin – Mao – Polpot và … Hồ Chí Minh, tổng số nạn nhân bao gồm:
61.911.000 bị chết trong các trại tù Gulag của Liên Bang cộng sản Sô Viết.
35.236.000 bị chết dưới chế độ cộng sản Trung Quốc.
3.500.000 bị “CCRĐ” và nội chiến do CS Việt Nam gây nên.
2.035.000 bị chết dưới thời cộng sản Khmer Đỏ, Campuchia.
1.585.000 bị chết do nạn thanh lọc chủng tộc của Cộng Sản tại Ba Lan.
1.503.000 bị chết trong thời Young Turks.
1.072.000 bị chết dưới chế độ cộng sản Nam Tư của thống chế Tito.
1.000.000 bị tù đày giết hại tại Bắc triều Tiên.
(Chưa đủ thống kê cho con số thật, vì dưới chế độ CS thủ tiêu bí mật là rất đặc trưng).
Lenin, Stalin, Mao, Polpot
Giống như tất cả những người VN, ông Hồ Chí Minh cũng là một người Việt Nam yêu nước, hiển nhiên là như vậy! Nhưng cách “yêu” của ông rất cá biệt, mọi người yêu nước tất yếu phải song hành với yêu Dân Tộc mình, riêng ông thì không ! như một tín đồ ngoan đạo, thần phục và trung thành với một giáo phái và nhiều “giáo chủ” không cùng huyết thống và không có liên quan gì đến dân tộc mình, trái tim ông hình như dâng hiến cho: “Giáo phái vô sản” và chủ nghĩa XH của “Cộng Sản Quốc Tế”.
Sau đệ nhị thế chiến, cuộc chiến tranh đẫm máu tang thương nhất của nhân loại chấm dứt, tất cả mọi nơi trên thế giới, nhân dân các quốc gia gạt nước mắt hò reo hớn hở bắt tay xây dựng, hàn gắn vết thương chiến tranh thì chỉ duy nhất tại Việt Nam – 1954. Sau khi hiệp định hòa bình Genève tạm thời phân chia đất nước, ông Hồ Chí Minh lập tức gây chiến tranh với nhân dân mình. Lúc giao thời ấy ông Hồ nhờ biết dùng thủ đoạn nên chiếm lĩnh được một chỗ ngồi phía trên thiên hạ, là lãnh đạo nhân dân. Nếu vì dân tộc, như một “Minh Quân” ông phải thấm đẫm nỗi đau khi mấy triệu thi hài đồng bào mình chết vì đói do quân phiệt Nhật chiếm đóng gây nên, thây chưa kịp rữa, nền kinh tế bằng không, ngân khố trống rổng, lòng người ly tán, ông Hồ nên khoan sức dân, vỗ yên “thiên hạ” cho đồng bào miền Bắc hồi sinh sau bao năm bị đô hộ và binh đao của thực dân Pháp. Đó là kế sách của tiền nhân từ ngàn đời Vương triều Việt nhưng ông Hồ Chí Minh không bình tâm lấy đó làm tấm gương để soi rọi, ông ngoan ngoãn thực hiện một cuộc đấu tranh giai cấp không có biện chứng từ thực tiễn một cách mù quáng theo “kinh kệ” CNXH và chỉ đạo của các “giáo chủ” cộng sản quốc tế (Mac-Lenin – Stalin – Mao) xuyên suốt quá trình triển khai nó nhân lên gấp nhiều lần sự tàn bạo đẫm máu và nước mắt do cuồng tín và tập thể “tri thức thiếu học”.
Ông Hồ Chí Minh nghe báo cáo tổng kết giai đoạn đầu, chỉ đạo giai đoạn tiếp theo cho Ủy ban Cải Cách Ruộng Đất, đến cuối năm 1956.
Cải Cách Ruộng Đất khởi đi từ 1949 kéo dài nhiều đợt đến 1956 là nỗi kinh hoàng mà chưa quốc gia nào trên thế giới sau đệ II thế chiến gặp phải. Ngoài thiệt hại nhiều nhân mạng lương dân vô tội nó còn phá tan những giềng mối xã hội thấm nhuần đạo lý dân tộc Việt: giữa Ông, Bà, Cha, mẹ, anh chị em, con, cháu, vợ, chồng, thầy, trò, thân tình, bạn hữu xóm giềng..v.v... khi tất cả đều phải tuân lệnh đảng CSVN cắn răng múi mặt đấu tố triệt hạ lẫn nhau đến điểm kết thúc cuối cùng là: Tử Hình, một vấn nạn ô nhục đạo đức chưa từng xảy ra trong suốt chiều dài lịch sử 4000 năm của dân tộc Việt Nam… Nhân lên nỗi đau thương ấy là tất cả chỉ để thực hiện theo yêu cầu của quốc tế CS các “giáo chủ” (Stalin –Lenin – Mao). Không sai chút nào: Ông Hồ Chí Minh và các đồng chí CS của ông đã vui lòng lấy máu nhân dân mình để nhuộm hồng lá cờ của quốc tế cộng sản! mà không chút đắn đo ?.
TẤT CẢ ĐỀU DIỂN TIẾN NHƯ THẾ NÀY
(Hình ảnh đấu tố, do nhiếp ảnh gia Liên Xô “Dmitri Baltermants” chụp vào năm 1955 tại miền Bắc Việt Nam. Ảnh mượn từ “Hành Khất - danlambao”)
Không cực đoan để cường điệu mà tự ước lượng, hãy tham khảo con số nạn nhân, lương dân vô tội đã nằm xuống cho đủ chỉ tiêu mà ông Hồ Chí Minh đã nhận thi hành để hoàn thành nhiệm vụ thanh toán địa chủ, báo cáo số liệu chính xác bằng văn bản cho quốc tế cộng sản, cụ thể là “Mao và Chu Ân Lai –TQ”: 172.008 người – xin lưu ý – con số 172.008 này chỉ là con số được ước lượng tối thiểu nhất mà cuốn sách "Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945 - 2000", tập 2, do nhà cầm quyền CS ấn bản tại Hà Nội năm 2004, thông báo. Dĩ nhiên, con số thực sự chắc chắn phải gấp 2 hoặc ba lần như thế ! Hãy nghe Bùi Tín, một nhân vật từng là Phó tổng Biên tập của báo Nhân Dân, và là Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, kể lại trong "Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất: “Những bài học còn nóng hổi” 10/2006, theo thống kê nội bộ của đảng CS (chưa được công khai hóa), ở những vùng đã CCRĐ: “cứ mỗi gia đình có trung bình 4 đến 5 người, bị liên quan đến người chết do đấu tố, nên số bị nạn lên đến 400 ngàn người. Họ mất nhà, mất tiền của vì bị tịch thu xung công, một số tự sát, còn sống cũng đói khổ, ốm đau, suy kiệt; khá đông gia đình bị tan vỡ, ly tán … Số "cường hào ác bá’’ (bị coi là oan hay không oan) bị tù đầy, đánh đập, tra tấn, tính cả gia đình bị điêu đứng theo thì con số bị nạn có thể trực tiếp lên đến hơn nửa triệu con người”. Những khẩu hiệu nằm lòng đảng CS đưa ra chỉ đạo để thực hành, mà ngày nay nhắc đến những nạn nhân thoát chết vẫn còn rùng mình: “thà giết oan mười người còn hơn để thoát một” hay “trí, phú, địa, hào, đạo tận gốc trốc tận rễ”. Dư âm và hậu quả làm của CCRĐ làm dân tình nao núng, nhiều nơi phản ứng chống đối, nhất là các giáo xứ công giáo, nhân dân vùng duyên hải đua nhau đóng bè vượt biển đào thoát vào miền Nam mỗi lúc một nhiều buộc lòng ông HCM phải tổ chức “Sửa Sai” trong nội bộ đảng CS, đích thân ông lên đài phát thanh khóc lóc nhận lỗi để xoa dịu tình hình…
Vì hậu quả 172.000 nạn nhân CCRĐ - Ông HCM khóc xin lỗi nhân dân miền Bắc trong phòng đài phát thanh Hà Nội.
Có điều lạ là hiện nay tượng đài “giáo chủ” Lênin, nơi quê hương ông ta người dân phỉ nhổ giật ngã đập nát để thu hồi sắt vụn, thì giữa thủ đô Hà Nội bên công viên xinh đẹp, “đồ đệ” ông Hồ vẫn trung thành bỏ công của tạc tượng Lênin để tôn vinh, còn gần 200.000 lương dân oan khuất bởi CCRĐ thì tới nay coi như hy sinh vì “bác” và “đảng” hảy cố “quên đi” không cần thiết phải có đài tưởng niệm, tiếc thương ? Một nhân cách “quá lớn” trong tình dân tộc của một đảng và nhà nước cầm quyền bên cạnh một Quốc Hội có trách nhiệm của nhân dân?.
Tuy nhiên, thế thôi vẫn còn là nhỏ so với sự thiển cận và sai lầm lớn hơn rất nhiều khi ông HCM nhận ấn “tiên phong” từ quốc tế CS, lấy máu xương mồ hôi nước mắt nhân dân miền Bắc làm tiền đồn CS/XHCN âm mưu nhuộm đỏ Miền Nam, Đông Dương và Đông Nam Á theo sách lược “đại đồng” của CNCS.
1960—Trong khi cả thế giới hòa bình, Lãnh đạo các quốc gia lân cận VN đang hối hả cùng nhân dân đồng tâm hiệp lực thi nhau xây dựng quốc gia sau thế chiến, để đưa nền kinh tế nước mình phát triển cho kịp theo đà tiến hóa phồn vinh của nhân loại, thì duy nhất trên thế giới, tại Việt Nam, ông HCM cũng thúc hối một thế hệ trai trẻ tinh hoa tiềm lực quốc gia nhưng trang bị tay súng tay mìn vượt vĩ tuyến 17, phá bỏ hiệp định hòa bình Geneve vào miền Nam gây chiến tranh với chính dân tộc, ngay trên quê hương mình, hướng những nòng súng mang nhãn hiệu búa liềm của Nga xô - Trung Cộng tiếp tế (mà sau này phải nhân nhượng bằng đất trời biển đảo) ông ra lệnh vượt vĩ tuyến 17 nhắm thẳng vào dân Việt, đồng bào ông, khạc đạn mà không chút đắn đo. Ông tuyên bố chắc nịch “chúng ta đang làm Nghĩa Vụ vì cách mạng Quốc Tế thiêng liêng cao cả cho Max và Lênin”. Lê Duẩn đồ đệ cánh tay mặt của ông thì huấn thị cho ba quân “Chúng ta nổ súng cho Nga xô và Trung Cộng”. Hỡi hồn thiêng sông núi, hỡi bia đá ngàn đời xin tạc lại cho muôn thuở để nguyền rủa hai câu nói đã viết nên bằng triệu máu xương thanh niên trai gái Việt này ! ông HCM ra sức hô hào toàn dân miền Bắc làm một hậu phương lớn để góp phần hoàn thành sứ mạng “Giải Phóng Miền Nam” – Nghịch lý thật đau lòng, một miền Bắc bốn mùa cơm độn ngô sắn bắp khoai lại phải đi “Giải Phóng” cho một miền Nam đang xuất khẩu gạo ra nước ngoài ở bến cảng Bình Đông mà sau 1975 – (cải tạo công thương nghiệp) người CSVN cũng phải tròn xoe mắt với những kho dự trử gạo xuất khẩu qui mô bề thế của Hoa Kiều Chợ Lớn, cảng Sài Gòn.
1967 – chợ Đồng Xuân và phố Hà Nội (trên) và Sài Gòn (dưới)
Cũng buồn như xe đạp và xe điện Hà Nội vào Nam “giải phóng” cho taxi, xe hơi Sài Gòn!
Ông Hồ Chí Minh không thủy chung với dân tộc mình, có thể nói như vậy – 4000 năm xây dựng và bảo vệ cơ đồ, tiền nhân chúng ta không vay mượn bất cứ lý thuyết chủ nghĩa nào ngoài sự kiên cường bất khuất của họ Hồng Bàng và giống dòng Âu Lạc để không thể bị đồng hóa từ phương Bắc, chỉ riêng ông Hồ là tư duy khác, cung thỉnh hai “linh vị” Mác-Lenin không cùng chủng tộc, không công lao ơn nghĩa, gì với dân tộc VN về phụng thờ thay cho Hùng Vương trên vị trí tầm cao uy linh của Tổ Quốc, ngược lại, chính cái chủ nghĩa từ “hai ông râu xồm” ấy đã gián tiếp cùng ông Hồ khai tử gần 200.000 lương dân vô tội trong (CCRĐ).
Chúng ta thấy gì qua di sản ông HCM để lại hôm nay, mà nhà nước CHXHCN/VN đang lấy đó làm “Minh Triết HCM” và “Tầm nhìn xuyên thế kỷ”, để định hướng tiếp tục cho tương lai đất nước này ?
Đây là một trong những di sản ông Hồ Chí Minh để lại cho CSVN làm “Minh Triết”
Từ thế kỷ 20, ông HCM và “tư tưởng” của ông đã đưa dân tộc VN “xuyên thế kỷ” bằng máu và nước mắt sang thế kỷ 21 cho một VN hiện nay như thế này: Gần 70 năm CNXH, thây trắng Trường Sơn máu đỏ nội đồng, gần 3 triệu nhân dân nằm xuống trong đó một thế hệ thanh niên hai miền hy sinh vô nghĩa, để khi kết thúc cuộc chiến hình hài tổ quốc hôm nay không còn nguyên vẹn như xưa ? Khi mà hiện nay nhân dân Hàn Quốc, Nhật Bản vui lòng chi trả mọi chi phí để lưu giữ hàng chục ngàn quân Mỹ trên đất nước mình thì những người CSVN đả phải chua chát và cay đắng để nhận diện ra rằng: Không phải “đế quốc Mỹ xâm lược” VN mà chính là “đế quốc CSXHCN Trung Quốc” đồng minh láng giềng mới đích thực là kẻ nham hiểm “xâm lược” Biển đảo đất trời của VN !. Thực tế hiện nay về mọi mặt VN tụt hậu khá xa không thể bắt kịp so với các quốc gia trong khu vực thua kém VN trước kia! Hàng chục ngàn đồng bào mình đang làm “Ôsin” ở Đài Loan. Hơn ba mươi ngàn nhan sắc Việt phải gửi thân làm dâu bèo bọt nơi xứ Hàn để lấy tiền gửi về giúp đỡ gia đình. Đảng và nhà nước chủ trương “xuất khẩu” hàng trăm ngàn công nhân VN, đang vắt sức lao động làm thuê khắp thế giới ? mà đây lại là ngọn cờ đầu “giai cấp” đối tượng chủ lực, mà đảng CSVN tuyên bố phải bảo vệ chống bị bóc lột ??.
Cũng giống như cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Ông Hồ Chí Minh cũng là một con người với đủ nhân tính “hỷ nộ ái ố”. Nhưng không như TT Diệm, đời tư trong sáng “ruột để ngoài da” đồng bào ai cũng thấy, ông Hồ Chí Minh ngược lại, người ta cố bịt kín ? Tuy nhiên, việc ông Hồ có bao nhiêu vợ, bấy nhiêu nhân tình và con rơi con rớt với ai thuộc về đời tư của một con người đã khuất, như là gia tài của riêng ông ta, hãy để nó nằm yên trong lăng cùng ông ấy – Có ăn có chịu, không có gì là xấu hổ cả ! nếu có thì nó ở phía những người cứ cố biện bạch là ông “độc thân” hiến cả đời mình cho dân cho nước mà.... “chưa có sự đồng ý của ông” lúc sinh thời!
Hai cuộc đời, hai nhân cách, hai định mệnh của hai con người mà:
1) Cố tổng thống Ngô Đình Diệm, nhân cách như sao Bắc Đẩu, nếu còn sống có thể đã đưa đất nước Miền Nam Việt Nam thành “Rồng” cất cánh cùng với: Hàn, Sing, Thái hay Đài Loan hôm nay, thì vướng phải định mệnh thành niềm đau như nỗi “Đoạn Trường” để rồi nằm xuống hắt hiu vùi thân nơi cô quạnh mà đến mộ phần cũng không được phép ghi lại cái tên của chính mình ? rất nhiều đồng bào ông cứ tự hỏi Cố Ngô tổng thống có tội gì với nhân dân, với đất nước? “Nghĩa tử là nghĩa Tận” Hiểu theo một cách khác, Tận: cũng có nghĩa là cuối cùng và hết rồi, vậy sao hận thù còn bám theo tới huyệt mộ ??
2) Ông Hồ Chí Minh – Nếu chưa thỏa mãn,cần thêm tư liệu, mọi người cứ vào Google gỏ “Sự Thật Hồ Chí Minh” click một cái có khoảng 144.000.000 kết quả (0,21 giây) liên quan đến nhân thân sự nghiệp ông Hồ Chí Minh để chúng ta sẽ hiểu được như thế nào “sự thật là chân lý của mọi chân lý” mà không có chất cường toan nào tẩy xóa nỗi – và để chúng ta cùng so sánh hai “lãnh tụ” từ hai đầu đất nước để cảm nhận có những nổi đau “Đoạn Trường” không phải nơi mình mà lòng dạ nhiều người cứ phải nhói đau.
Ôn cố tri tân, lịch sử không có trái tim nên rất lạnh lùng và vô tư, không thiên vị. Hãy tìm xem trên mọi cung đường đất nước có con đường nào mang tên Nguyễn Ánh ? – Tiên Đế Gia Long, người khai sinh ra Hoàng Gia 13 Vương Triều Việt, nhưng chính ông không bao giờ được lịch sử và thần dân một thời của mình là dân tộc Việt kính phục để vinh danh, bởi nhân cách của ông thấp quá, là Vua nhưng hành xử thua phường thứ dân, ngoài sự thiển cận, cầu viện, cấu kết với thực dân Pháp, đánh lại nhà Tây Sơn (hậu vua Quang Trung) bắt cầu cho Pháp, khiến VN bị 100 năm nô lệ giặc Tây, còn “thù vặt” hành hạ truy sát dã man tất cả công hầu, khanh tướng, thân nhân già trẻ lớn bé trong Hoàng Tộc vua Quang Trung mà phạm trù đạo đức của con người không thể bỏ qua để lịch sử chấp nhận tôn vinh ông!
Hình như vết nhơ có thứ có thể rửa được, nhưng “máu” người thì không! Chẳng phải là duy tâm, nhưng thường thì những món nợ cho dù là ai, quyền uy có tối thượng như vua chúa nhưng nếu vay bằng “máu” sinh mạng nhân dân vô tội, khi lịch sử đã đòi thì khó mà “quịt” được. Bởi bia đá có mòn nhưng lòng người và bia miệng thì muôn thuở.
No comments:
Post a Comment