Thursday, August 18, 2011

Người Trung Quốc bàn về Xã hội Công dân

Ngô Nhân Dụng - Tại Trung Quốc, từ thập niên 1980 giới khoa học xã hội đã thảo luận công khai và khá sôi nổi về đề tài xã hội công dân (tiếng Anh, Civil Society, tiếng Pháp, Société Civile). 

Năm 1986 khi Trung ương Đảng Cộng Sản in tập sách “Hướng dẫn việc Xây dựng Nền Văn minh Tinh thần,” trong đó nhấn mạnh công tác “phát huy ý thức công dân xã hội chủ nghĩa,”
nhiều học giả thấy một cơ hội tốt để bàn vấn đề này. Lấy trớn từ đề tài “ý thức công dân,” tạp chí Thiên Tân Xã hội Khoa học (tức báo Khoa học Xã hội tại thành phố Thiên Tân) bắt đầu cuộc thảo luận.

Đề tài nêu lên lúc khởi đầu là một từ trong tác phẩm “Mười Tám Brumaire” của Karl Marx. Từ lâu, khái niệm mà Marx gọi là “burgerliche Gesellschaft” vẫn được dịch sang tiếng Trung Hoa là “tư sản giai cấp xã hội,” nghĩa là Xã hội của Giai cấp Tư sản. Trong tạp chí Thiên Tân Xã hội Khoa học số 4 tác giả Thần Nhạc (神乐, Shen Yue) đề nghị đổi cách dịch chữ “burgerliche;” mà theo ông không nên gọi là “tư sản giai cấp,” mà nên dịch là “thị dân.” Thí dụ “tư sản giai cấp quyền lợi” dịch lại là “thị dân quyền lợi.” Lý do vì những chữ “tư sản giai cấp” trong ngôn ngữ lúc đó chỉ hàm ý xấu, nhấn mạnh đến khía cạnh “giai cấp bóc lột;” dịch như vậy không nói chung về tất cả dân ở thành thị, như nguyên ý chữ “burgerliche;” mà Marx sử dụng.

Chữ “thị dân,” theo Thần Nhạc, gần với gốc chữ burger hơn; mà trong từ thị dân bao gồm cả các nhà tư sản lẫn giới lao động, để phân biệt họ với những người nông dân và nô lệ. Hai lớp người tư sản và lao động cùng tham dự vào thị trường với quyền trao đổi tự do và hai bên có quyền lợi xung khắc. Cho nên phải sinh ra một hệ thống pháp luật để phân xử, ấn định quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người. Hệ thống pháp lý này biến các thị dân thành những công dân. Bài báo này được đăng lại trên Nhật báo Nhân Dân, Bắc Kinh, ngày 24 tháng 11 năm 1986, cho thấy giới lãnh đạo lúc đó có cởi mở đối với các ý kiến dị biệt, dù chưa được đảng thông qua.

Trong một bài khác viết trên tạp chí Nghiên cứu Triết Học, Thần Nhạc giải thích thêm về danh từ burgerliche Gesellschaft mà Marx và Engels dùng. Gốc chữ burg dịch sang chữ Hán là “thành bảo” tức là những dinh cơ giống như pháo đài nhỏ. Trong tiếng Đức từ burg biến chuyển, sau có nghĩa là thành thị, nơi mọi người mua bán, đổi chác theo trong thị trường. Quan hệ thị trường không nhất thiết là mối quan hệ bóc lột mà những chữ “giai cấp tư sản” hàm ý; thị dân không phải chỉ là giới tư sản. Vì vậy, Thần Nhạc đề nghị sửa lại, hãy dịch burgerliche Gesellschaft là Thị dân Xã hội, nói lối của người Việt chúng ta là Xã hội Thị dân.

Đề nghị này đã khơi nguồn một cách mới hiểu tư tưởng gốc của Karl Marx. Người ta xác nhận các thị dân có những quyền lợi tương đồng, có quyền bình đẳng trong mọi giao dịch, các quyền này được luật pháp bảo vệ, và giữa họ không phải chỉ có những tương quan kinh tế có tính cách bóc lột. Cũng theo nghĩa đó, những chữ “quyền lợi thị dân” không áp dụng riêng cho giai cấp tư sản, đó là những quyền mọi công dân trong thành thị đều được hưởng. Khái niệm dân quyền, quyền của mọi công dân, không có tính giai cấp, đã được xác nhận và đem ra thảo luận. Hoàng Đạo, trong bài “Vai trò Ý thức Công dân trong Thời đại Xã hội chủ nghĩa” in trên Lý Luận Nguyệt San (số 1 năm 1988) cũng đồng ý quan niệm “công dân” không có tính giai cấp. Mọi công dân có những quyền được luật pháp bảo vệ, đồng thời có những bổn phận đối với xã hội, như nhau. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, ý thức công dân đặt trên căn bản tập thể chứ không phải cá nhân chủ nghĩa như trong xã hội tư bản, Hoàng Đạo nhấn mạnh.

Lưu Chí Quang (Liu Zhiguang) và Vương Tố Lị (Wang Suli) viết trong tạp chí Chính trị Nghiên cứu số 5 năm 1988 đã đề nghị dùng chữ “Công dân Xã hội,” nói theo lối Việt Nam là Xã hội Công dân, để dịch khái niệm Civil Society. Trong bài mang tựa đề “Từ Xã hội Quần chúng tới Xã hội Công dân,” hai tác giả đã nhận xét rằng trong truyền thống Trung Hoa, dưới ảnh hưởng của Khổng giáo, không có sự phân biệt giữa xã hội và cá nhân. Nói cách khác, không có cá nhân; mỗi con người được định nghĩa bởi những tương quan với người khác, trong gia đình, đối với bằng hữu, rồi tới quốc gia (Ngũ Luân). Do đó trong xã hội Trung Hoa bên dưới nhà nước chỉ có một thứ “quần chúng xã hội” chứ không có những “tự do dân” như ở Tây phương. “Tự do dân” tức là những con người tự do với tính cách cá nhân tự chủ, độc lập đối với gia đình, với quốc gia.

“Tự do dân” có những quyền hạn được luật pháp bảo đảm chống lại quyền lực vô hạn của chính quyền.  Xã hội Trung Hoa cổ truyền dựa trên Quần chúng; chỉ ở Tây phương thời hiện đại mới có Xã hội Công dân. Hai chữ quần chúng có nghĩa là một đám đông trong đó mỗi cá nhân không đáng kể nữa. Chữ “Quần,” với bộ Dương, nghĩa là con cừu, cho thấy hình ảnh một bầy, một đám. Nói Quần chúng ngầm hiểu có sự phục tùng; còn hai chữ Công dân cho thấy tinh thần bình đẳng, khi mọi cá nhân đều có giá trị như nhau. Chỉ khi nào vai trò tự chủ của cá nhân được thừa nhận thì mới phát triển được ý thức công dân. Đó là khi người dân không nghĩ mình chỉ là một phần tử trong một đám đông, mà phải nghĩ rằng mỗi người là một công dân, có tư cách một cá nhân, lúc đó ý thức công dân mới phát triển được. Trong xã hội như thế mới bảo đảm được tự do, dân chủ, thay thế lối “lấy người cai trị người” (nhân trị) bằng lối “cai trị qua luật pháp” (pháp trị). (Theo Tân Hoa Văn Trích bộ 11, số 119, năm 1988)

Lối thảo luận như trên đã đi hơi xa ngoài lề đường ấn định, ra ngoài khuôn khổ những gì đảng Cộng sản cho phép; cho nên đã có những ý kiến chính thức phản đối. Hề Triệu Vĩnh (奚兆永 Xi zhaoYong) thuộc đại học Nam Kinh, trong bài “Thị dân Xã hội Biện tích” đăng trên tạp chí Triết học Nghiên cứu số 5, 1990, đã phê phán những ý kiến của Thần Nhạc. Ông ghi nhận rằng từ Burger trong tiếng Đức có hai nghĩa, là Thị dân và là Giới Tư sản. Nhưng trong hầu hết các tác phẩm của Marx và Engels, nó có nghĩa là giới tư sản. Trong tư tưởng Marx và Engels, tiếp theo chế độ phong kiến là “phương pháp sản xuất tư sản” chứ không phải “phương pháp sản xuất thị dân.”

Giới học giả bảo vệ tư duy chính thức muốn xác định lại cách hiểu Karl Marx theo đúng đường lối. Marx đã mượn từ ngữ “Burgerliche Gesellschaft” của Hegel, mà Hegel (trong cuốn Triết Lý về Quyền – Philosophie des Rechts) cũng chịu ảnh hưởng của Adam Smith và Adam Ferguson. Hegel cũng như Ferguson cho rằng hoạt động kinh tế, tức thị trường, là một phần của Xã Hội Công Dân, bên cạnh các sinh hoạt tư khác. Karl Marx thu khái niệm “burgerliche Gesellschaft” của Hegel vào một ý nghĩa hẹp hơn, thuần túy kinh tế, và đưa thêm vào đó tính đấu tranh giai cấp. Marx coi “cái gọi là xã hội công dân” chỉ là một “trò bịp” của giai cấp tư sản vì trong thực tế giai cấp này kiểm soát cả nhà nước lẫn xã hội. Cho nên khi người Trung Hoa dùng chữ “xã hội tư sản chủ nghĩa” để dịch burgerlicher Gesellschaft là họ dịch đúng ý nghĩa nguyên thủy của Karl Marx. Từ đó, người ta có khuynh hướng dùng chữ Xã hội Thị dân nhiều hơn chữ Xã hội Công dân.

Sau bài kể trên của Hề Triệu Vĩnh, cuộc thảo luận về xã hội công dân gần như ngưng lại, có lẽ vì biến cố Thiên An Môn tháng Sáu năm 1989. Phải hai năm sau, một cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức tại Đại học Phục Đán, Thượng Hải, các học giả ngoại quốc đã đem bàn vấn đề đem khái niệm xã hội công dân áp dụng vào việc phân tích xã hội Trung Quốc, trong thời cuối nhà Thanh và thời Dân quốc. Tuy nhiên, các học giả người Trung Quốc sống ở nước ngoài đã tham dự vào cuộc thảo luận về vấn đề này một cách hăng hái hơn sau biến cố Thiên An Môn; các học giả trong nước cũng trở lại với vấn đề này.

Trong tạp chí của hội Khoa học Xã hội Trung Quốc, số 5 năm 1994, trang 82-102, Phương Triều Huy (Fang Zhaohui) bàn về hai đường lối nội dung chữ Civil Society đang dần dần hội tụ, ông cũng dùng chữ Thị dân Xã hội để dịch Civil Society. Có thể nói hội Khoa học Xã hội Trung Quốc nghiêng về cách dùng chữ Thị dân Xã hội cho thích hợp với nội dung Mác xít hơn. Mặc dù danh từ Xã hội Thị dân đã chiếm ưu thế, các học giả trong và ngoài nước Trung Hoa vẫn sử dụng các từ khác: Xã hội Công dân, Xã hội Dân gian; tuy nhiên không thấy ai gọi tên Xã hội Dân sự.
Đa số các học giả nghiên cứu vấn đề này đồng ý với Lưu Chí Quang và Vương Tố Lị rằng truyền thống Nho Giáo không tốt cho việc xây dựng xã hội công dân; nhưng cũng có nhiều người nghĩ khác. Tưởng Khánh (Jiang Qing), viết trong Trung quốc Xã hội Khoa học Quý san số 3 năm 1993, trang 170- 75, nhận xét rằng trong truyền thống Nho giáo có những yếu tố để xây dựng “thị dân xã hội.” Khi nói đến ‘xã hội thị dân” thì có học giả Trung Quốc chủ trương rằng từ thời Chiến Quốc ở lục địa Trung Hoa đã có xã hội thị dân rồi, và nhiều người trong đám thị dân đã đóng các vai trò quan trọng trong chính trị.
Đặng Chính Lai (Deng Zhenglai 邓正来), một khoa trưởng và giáo sư “đặc sính” (đặc thỉnh) tại Đại học Phục Đán, Thượng Hải, trong cuốn Nghiên Cứu dữ Phản Tư (tên gọi tiếng Anh: Research and reflection) nhận xét rằng người ta có khuynh hướng nhấn mạnh đến tính chất đối kháng giữa Xã hội Thị dân và nhà nước; giống như tình trạng đã diễn ra ở Đài Loan. Nhưng theo ông, khái niệm này khi đặt trong khung cảnh xã hội Trung Hoa phải được thay đổi cho phù hợp với môi trường văn hóa Nho Giáo. Theo ông, khảo hướng của Locke nhấn mạnh đến Xã hội Thị dân và lối nhìn của Hegel chú trọng tới nhà nước, cả hai đều thiên lệch, một chiều. Khi áp dụng vào xã hội Trung Hoa thì quan niệm của Locke phải được biến đổi cho phù hợp với truyền thống Nho Giáo, trong đó không có sự tách biệt và đối kháng giữa nhà nước và xã hội.
Vương Thiệu Quang (Wang Shaoguang 王绍光) là một học giả được đào tạo trong hai nền giáo dục đại học ở Trung Quốc và ở Mỹ, đã tích cực dấn thân trong cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội ở nước ông, đặc biệt là san bằng cảnh chênh lệch giầu nghèo giữa “bốn nước Trung Hoa” phát triển khác nhau. Ông nghiên cứu để đánh thức xã hội và chính quyền về sự suy sụp của nền y tế hương thôn, về tai nạn lao động, những sự thật ông nêu ra và những đề nghị của ông đã ảnh hưởng tới các chính sách của nhà nước.

Trong tạp chí Nhị thập nhất thế kỷ (Thế kỷ 21) số 8 năm 1991 Vương Thiệu Quang đề cao vai trò của nhà nước trong việc “làm sạch sẽ” xã hội, trong lãnh vực kinh tế và xã hội; do đó nhà nước cần thiết hơn “xã hội thị dân.” Ông cho là phải dân chủ hóa “xã hội thị dân” bằng những giới hạn trên việc thủ đắc tài sản và san bằng sự chênh lệch giầu nghèo, và ông hy vọng sau này sẽ có ngày tiến tới “xã hội công dân” trong đó quyền lợi cá nhân được quân bình với mối liên đới mà lãnh vực công phụ trách, và bảo vệ tính công bằng trong xã hội.

Trong cuốn Đương đại Trung Quốc đích quốc gia dữ xã hội quan hệ ấn hành năm 1992, trong đó Trần Khuê Đức (Chen Kuide 陈奎德) chủ trương rằng từ thời Xuân Thu, Chiến Quốc, đã có một thứ “lãnh vực tư” như khi các tay Du hiệp và các nhà Nho liên kết với nhau thí dụ trong các trường tư, mối quan hệ theo hàng ngang chứ không chỉ theo hàng dọc. Họ trao đổi ý kiến, phát huy tinh thần cạnh tranh ngay trong phạm vi tư tưởng, thành lập các nhóm, vượt qua biên giới các nước chư hầu (một thứ “toàn cầu hóa” trong lục địa Trung Hoa trước đây 25 thế kỷ). Đó là một mầm mống của Civil Society. Trần Khuê Đức (Chen Kuide) định nghĩa Xã hội Công dân bao gồm cả “các xí nghiệp tư, các đại học, báo chí, công đoàn, giáo hội, và tất cả các tổ chức đứng độc lập với guồng máy nhà nước”.

Trong một bài in tháng Ba năm 1990 Trần Khuê Đức viết rằng việc liên minh giữa các nhà trí thức với các doanh nhân là một bước quan trọng để hình thành xã hội công dân ở Trung Quốc. Ông cho rằng xã hội công dân đã bắt đầu xuất hiện vào cuối thập niên 1970 từ khi người dân Trung Quốc được làm ăn tự do, được ông Đặng Tiểu Bình cho phép “làm giầu”. Ông tin là xã hội công dân sẽ tiếp tục phát triển mặc dù đảng và nhà nước tìm cách “bóp nghẹt từ trong nôi.” Ý kiến liên kết giới trí thức và các doanh nhân vẫn được các học giả Trung Quốc nêu lên trong thời ông Hồ Cẩm Đào, khi đảng Cộng Sản Trung Quốc bắt đầu thu nhận giới kinh doanh vào làm đảng viên.

Trần Khuê Đức ở Thượng Hải là lớp sinh viên cao học đầu tiên ở Trung Quốc được hướng về nghiên cứu khoa học xã hội vào năm 1977. Ông tốt nghiệp tiến sĩ ở Thượng Hải rồi dậy liên tiếp tại hai trường đại học ở đó, đồng thời làm giám đốc một Viện Nghiên cứu Văn hóa. Từ giữa thập niên 1980 ông chủ trương biên tập tạp chí Tư Tưởng Gia ở Thượng Hải, năm 1989 đã làm kiến nghị yêu cầu trả tự do cho các tù nhân chính trị. Trần Khuê Đức đã trình bầy những bước tiến để xây dựng Xã hội Công dân ở Trung Quốc, như tản quyền về các địa phương, tách chính trị ra khỏi các doanh nghiệp nhà nước, phát triển các tương quan hàng ngang trong xã hội để giảm tầm quan trọng của liên hệ hàng dọc do chính quyền trung ương nắm trong tay; và sau cùng là cải cách chính trị. Sau vụ Thiên An Môn, ông bị cưỡng bức lưu vong, từ đó được mời làm việc với Đại học Princeton ở Mỹ và thường tham dự các cuộc hội thảo quốc tế, trong khi cũng tham gia phong trào vận động dân chủ cho nước ông.

Sự hình thành của Đảng Dân Chủ Trung Quốc sau đó, cũng như các phong trào nghiệp đoàn độc lập (cả hai vẫn bị cấm), nhất là phong trào Pháp Luân Đại Pháp cũng như hàng chục ngàn các cuộc biểu tình khiếu nại mỗi năm ở Trung Quốc cho thấy lời tiên đoán của ông Trần đang thành sự thật: Xã hội Công dân vẫn tiếp tục phát triển khi có đủ những điều kiện kinh tế mở đường, dù bị dập tắt nhiều lần nhưng không thể tiêu diệt được.
Nhiều tác giả người Trung Hoa ở nước ngoài và ở Hồng Kông, Đài Loan cũng tham dự vào cuộc thảo luận trên. Ở Đài Loan nhiều người đã dịch Civil Society là “Dân gian xã hội.” Trong một tập sách gồm nhiều tác giả với đề tài “Từ Dân chủ vận động đến dân chủ chính trị” xuất bản ở Hồng Kông năm 1993, Cam Dương (甘 陽, Gan Yang) đã phê bình “Dân gian Xã hội Quan niệm.” Ông cho là sử dụng từ “dân gian xã hội” (đọc lối Việt Nam là xã hội dân gian) không đúng vì nhấn mạnh đến sự tách biệt giữa quyền lợi của người dân và quyền lợi của quốc gia. Ông chủ trương nên dùng chữ Công dân Xã hội, trong khái niệm này các quyền lợi chung của người dân cũng thuộc vào trách nhiệm của quốc gia. Trong lục địa, Châu Anh cũng dùng cách dịch này, khi viết trọng Nhị thập nhất thế kỷ (Thế Kỷ 21 số 3 năm 1990), nhận xét về vai trò của “nhà nước” đời Nhà Thanh trong việc phát triển “Dân gian Xã hội” với một tầng lớp thương nhân mới ra đời.

Một người được nhắc tới nhiều nhất trong số các học giả Trung Hoa ở nước ngoài là Mã Thụ Nhân 馬樹人, Ma Shu Yun), với một bài tổng kết các cuộc thảo luận, nghiên cứu về Civil Society ở Trung Quốc, đăng trên China Quarterly số 137, năm 1994, trong đó ông kiểm điểm những ý kiến trong cuộc thảo luận về vấn đề xã hội công dân ở Trung Quốc và trong giới nghiên cứu ở hải ngoại. Mã Thụ Nhân, giáo sư Đại học Trung Văn tại Hồng Kông đã tiếp xúc với nhiều học giả và văn nghệ sĩ Trung Hoa lưu vong, đặc biệt là những người cộng tác với Đại học Princeton.

Một trong số những học giả sống bên ngoài là Lưu Tân Nhạn (Liu Binyan 刘宾雁), một cựu phóng viên nhật báo Nhân dân. Trên tạp chí Journal of Democracy (Mùa Xuân 1991), ông ca ngợi giới trí thức Đông Âu đã cố gắng phát triển xã hội công dân trong nước họ để trở thành đối lực với nhà nước và đảng cộng sản; đề nghị người Trung Quốc rút kinh nghiệm đó mà thiết lập các tổ chức độc lập như công đoàn tự do, từ đó xã hội công dân sẽ mạnh hơn.

Nhiều người Trung Quốc lưu vong tỏ ý nghi ngờ việc áp dụng một mô thức Tây phương như xã hội xuống dân vào Trung Quốc. Tô Vĩ (Su Wei 苏伟) tỏ ý dè dặt khi bàn chuyện này, và chủ trương hãy tìm những mô hình mới lấy ý từ truyền thống Trung Quốc, mặc dù ông cũng thấy xã hội công dân cần được phát triển. Tô Hiêu Khang (Su Xiaokang 苏晓康) đồng ý với Lưu Tân Nhạn, cho rằng tình trạng xã hội Trung Quốc hiện nay giống các nước Đông Âu trước năm 1989 hơn là giống các nước Á Đông cùng trong truyền thống Nho Giáo. Ông nhận xét rằng ngay từ khi Trung Quốc cải tổ kinh tế thì nhiều lực lượng xã hội đã tách dần ra khỏi sự kiểm soát của nhà nước. Những nhóm trí thức độc lập và các doanh nhân mới sẽ là các hạt nhân để nẩy sinh xã hội công dân ở Trung Quốc sau này. Theo Tô Hiêu Khang, xã hội công dân có thể phát triển ở Trung Quốc vì ba lý do: Những tổ chức xã hội cũ như gia tộc, tôn giáo, băng đảng đang làm guồng máy nhà nước suy yếu; tình trạng thờ ơ của người dân đối với chính trị quốc gia; và tình trạng đạo đức trong xã hội suy đồi. Ông nêu lên con số 1,800 “hội kín” (tổ chức bí mật) mà chính phủ Trung Quốc kể ra, trong đó có hội kín với trên mười ngàn người tham dự. Chính Tô Hiêu Khang đã được một tổ chức bí mật giúp trốn ra khỏi nước. Trong khi đó thì các tổ chức công khai của giới trí thức hoặc công nhân không được phép hội họp và thành lập. Như thế là người ta chỉ có thể tụ tập dưới hình thức bất hợp pháp mà thôi.

Cuộc thảo luận về Xã hội Công dân ở Trung Quốc vẫn còn tiếp tục trong những cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh. Trong tạp chí Trung Quốc Xã hội Khoa học, số 3 năm 2008, Trương Khang Chi (张康之 Zhang Kangzhi) và Trương Càn Hữu (张乾友 Zhang Qianyou) nhận xét rằng danh từ Công dân Xã hội (公民社会) để dịch Civil Society dễ đưa tới hiểu lầm. Từ này vừa có nghĩa là Thị dân Xã hội (Civil Society 市民社会) và lại có nghĩa là Nhà nước Công dân, hay Công Dân Quốc gia (Citizen State 公民国家); cả hai đều do sự phân hóa của xã hội tạo thành.

Giả Tây Tân là một nhà nghiên cứu chuyên về sự tác động hỗ tương giữa chính quyền và xã hội công dân, với các dự án phát triển sự tham gia của các công dân trong các quyết định của nhà nước địa phương. Bà phụ trách đo lường Chỉ số Xã hội Công dân Civil Society Index (CSI) ở Trung Quốc, do các cơ quan phát triển quốc tế thực hiện trong 60 quốc gia. Bà nhận xét chính phủ Trung Quốc đang cản trở sự phát triển của Xã hội Công dân vì họ có thái độ nghi ngờ cho nên ngăn cấm các tổ chức hạ tầng do tư nhân đề xướng. Ngoài ra, luật lệ của nhà nước phân biệt đối xử giữa các hội đoàn phi chính phủ (NGO). Có những hội được chính thức công nhận hoạt động, mà bà gọi là GONGO (government organized NGOs); còn những hiệp hội NGO do dân tự lập nên không được nhà nước công nhận thì tại Trung Quốc phải ghi danh như các cơ sở thương mại.

Nhiều người Trung Quốc cổ động cho Xã hội Công dân đã tìm cách chứng tỏ khái niệm này phù hợp với chính sách của đảng Cộng sản. Lý Bình (李萍, Ping Li) trong Học Báo cùa Trường Đại học Sư Phạm, ban Khoa học Xã hội, tỉnh Hồ Nam (湖南師範大學社會科學學報), số 9 năm 2005, đã biện luận rằng khái niệm Xã hội Công dân (公民社会) có thể giúp xây dựng Xã hội Hòa hài (和谐社会)theo chủ trương của ban lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc lúc đó. Lý Bình nhấn mạnh đến tính chất tích cực của khái niệm Xã hội Công dân, sau khi nhận xét rằng danh từ này thường được dịch là Thị dân Xã hội trong ý phê phán tư tưởng của Hegel (黑格爾). Từ Xã hội Công dân, theo Lý Bình, còn nhấn mạnh tới tính chất tự chủ của mỗi người thị dân trong kinh tế thị trường khi công nghiệp phát triển. Xã hội Công dân có thể bồi dưỡng nền chính trị dân chủ và tạo cơ hội cho người dân tham gia vào việc chung. Do đó, Xã hội Công dân có thể giúp kiến thiết Xã hội Hòa hài. Một đằng, Xã hội Công dân giúp nhà nước hiểu biết về sinh hoạt bình thường của người dân; mặt khác, nó phổ biến nguyên tắc sống bình đẳng, dùng lý tính để hòa giải các xung đột trong xã hội. Xã hội Công dân cũng tạo ra “đạo đức công dân,” mà người Việt chúng ta gọi là Tinh thần Công dân, để xây dựng một xã hội hòa hài.

Xã hội Công dân trong tiếng Việt

Khái niệm “xã hội công dân” đã phổ biến ở nước ta khá lâu, ít nhất cũng vài chục năm. Cũng như tại mấy nước Á Đông khác từng dùng chữ Hán, mọi người vẫn chưa đồng ý hoàn toàn về cách dịch các từ ngữ này từ tiếng Anh (civil society) hay tiếng Pháp (société civile) như thế nào. Đã có bốn từ được dùng để dịch chữ Civil Society, thành Xã hội Văn minh, Xã hội Thị dân, Xã hội Dân gian, Xã hội Công dân, và riêng ở Việt Nam còn dịch là Xã hội Dân sự. Mỗi một từ được chọn cho thấy người dịch và sử dụng hiểu từ Civil Society dưới nhiều góc cạnh. Có thể nói từ nào cũng diễn tả đúng một phần khái niệm đó. Tình trạng phân vân không hoàn toàn chỉ vì khó khăn khi chọn những chữ để thông dịch, mà tính phức tạp nằm ngay trong ý nghĩa của hai từ đó khi diễn tả bằng tiếng nói các nước tây phương, do những tiếng gốc La tinh, civilis và societat. Khái niệm và danh từ “civil society” bao hàm nhiều nghĩa khác nhau, thay đổi với thời gian và chủ ý của người sử dụng.

Người ta dịch chữ civil (Anh hoặc Pháp) bằng nhiều cách khác nhau vì chính trong các ngôn ngữ đó từ này cũng được hiểu theo nhiều cách. Trong tiếng Pháp và tiếng Anh, khi được dùng như một tĩnh từ, nghĩa thứ nhất của chữ civil (gốc La tinh civilis) là “Cái gì thuộc về các công dân và tập thể của họ, các mối tương quan của họ” (Petit Larousse) hoặc “thuộc về hoặc liên hệ tới các công dân” (Webster).

Ngoài ra, chữ civil còn có nghĩa là “dân sự,” để phân biệt với những gì thuộc về quân sự hoặc thuộc các tu viện và giới tăng lữ; civil cũng có nghĩa là tính chất lễ độ, lịch sự, văn minh, vân vân. Vì vậy tại các nước Á Đông chịu ảnh hưởng của chữ Hán, người ta còn dùng những từ xã hội văn minh, xã hội thị dân, xã hội dân sự, xã hội dân gian, vân vân để gọi société civile và civil society. Mỗi lựa chọn đều cho thấy người dịch hiểu những chữ société civile và civil society với nội dung như thế nào. Điều này không lạ vì chính người Anh hay Pháp cũng hiểu các chữ đó theo các nghĩa khác nhau, tùy khung cảnh mà họ sử dụng.

Sau khi nhìn qua các điều được thảo luận của các tác giả người Trung Hoa, chúng ta có thể thấy cách dịch tiện nhất là dịch Civil Society như Xã hội công dân. Chúng ta không nhất thiết phải sử dụng cách lựa chọn của đa số người Trung Quốc trong lục địa và tại Hồng Kông, nhưng từ thời các nhà Nho Đông Du đọc Khang Hữu Vi tới thời Hoàng Xuân Hãn soạn Danh từ Khoa học, người Việt Nam vẫn tìm hiểu cách người Trung Hoa sáng chế các thuật ngữ mới để gọi tên các khái niệm của Tây phương như thế nào. Bởi vì dùng chữ Hán Việt cũng có nhiều thuận tiện.

“Xã hội công dân” thể hiện được nhiều hàm ý trong từ Civil Society.  Dù hiểu khái niệm civil society rộng hay hẹp, dù không coi nó nhất thiết phải đối lập với guồng máy cai trị của nhà nước, thì khái niệm này cũng diễn tả một thực thể dùng để đối chiếu với guồng máy cai trị của nhà nước. Nó gồm những hoạt động, tổ chức mà nhà nước không quản lý, không khống chế, để cho người dân tự lo, tự liệu, theo tiêu chuẩn tự nguyện.  Nhiều vị học giả dùng những chữ “Xã hội dân sự” để dịch civil society. Nhưng khi nói đến “dân sự” chúng ta liên tưởng đến khái niệm đối chiếu là “quân sự;” hoặc trong luật pháp thì dân sự khác với hình sự.

Nói đến Xã hội Dân sự người ta có thể coi nó bao gồm cả guồng máy hành chánh dân sự của nhà nước. Như vậy thì Xã hội Dân sự có thể là một thực thể rộng lớn hơn, trong đó bao gồm cả xã hội công dân. Chữ “Xã hội Công dân” khiến người ta dễ đối chiếu với khái niệm “nhà nước” hơn. Mặc dù trong chế độ dân chủ thì nhà nước cũng chỉ là đại biểu của toàn dân, như thế thì xã hội công dân vẫn liên kết một cách hữu cơ với guồng máy cai trị chứ không hoàn toàn là đối kháng. Trong ngôn ngữ Pháp, từ dân sự (civile) còn dùng để phân biệt với các tu sĩ chứ không phải chỉ có các quân nhân. Một vấn đề mà người ta còn bất đồng ý kiến là trong Xã hội Công dân có bao gồm các tổ chức tôn giáo hay không. Cũng vậy, có người cho là các tổ chức xí nghiệp, tập đoàn kinh doanh không nên xếp vào trong Xã hội Công dân! Do đó chúng ta thấy có thể dùng nhiều danh từ khác nhau, mỗi khi nói đến xã hội dân sự hoặc xã hội công dân chúng ta phải biết chúng bao gồm những không gian rộng hẹp khác nhau.

Ngô Nhân Dụng

No comments:

Post a Comment