
Xin nói ngay, những lập luận như vậy
không phải chỉ thấy ở Việt Nam. Hầu như bất cứ nước độc tài nào cũng nói
thế. Từ châu Phi đến châu Á. Từ các nước Hồi giáo ở Trung Đông đến các
nước cộng sản cuối cùng còn lại trên thế giới. Ở đâu cũng có một lập
luận giống nhau: dân chủ hóa quá nhanh chỉ dẫn đến khủng hoảng trên mọi
mặt, và cuối cùng, một nền độc tài có khi còn tàn bạo hơn.
Một điều khác cũng cần được nhấn
mạnh là những lập luận như thế không phải chỉ được đề xuất bởi nhà cầm
quyền, những kẻ muốn tiếp tục duy trì quyền lực và những tham vọng cá
nhân vô giới hạn của mình mà còn được ủng hộ bởi một số học giả độc lập
và có rất nhiều thiện chí. Viết thế, tôi nghĩ, trước hết, đến Bernard
Lewis, một học giả Hồi giáo nổi tiếng. Trong một bài phỏng vấn đăng trên
tờ The Jerusalem Post ngày 25 tháng 2 năm 2011, nhân các vụ dân chúng
xuống đường ào ạt đòi hỏi dân chủ ở Tunisia, ông nhấn mạnh: dân chúng ở
các nước Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi chưa sẵn sàng cho một chế độ
dân chủ theo nghĩa là một chế độ được xây dựng trên các cuộc bầu cử tự
do. Ông nêu lên hai lý do. Một lý do thuộc về lịch sử: trên thế giới,
không hiếm trường hợp các cuộc bầu cử như vậy chỉ dẫn đến sự ra đời của
bạo chúa. Bằng chứng đầu tiên là Hitler, kẻ lên cầm quyền nhờ một cuộc
bầu cử tự do và công bình ở Đức vào năm 1932. Bằng chứng thứ hai là cuộc
bầu cử khác, cũng rất tự do và công bình, ở Turkey năm 1950, cũng dẫn
đến sự ra đời của chế độ độc tài Adnan Menderes hết sức khắc nghiệt. Một
lý do khác thuộc về thực tế: ở phần lớn các quốc gia Hồi giáo hiện nay,
nếu có bầu cử tự do và công bình, những kẻ có nhiều khả năng chiến
thắng nhất là các nhóm Hồi giáo cực đoan vốn được tổ chức một cách chặt
chẽ nhất và có nhiều ảnh hưởng nhất trong dân chúng.
Về lý mà nói, những lập luận ở
trên không có gì sai cả. Không có gì hoang tưởng cho bằng việc đòi Việt
Nam - hay bất cứ nước độc tài nào khác - phải dân chủ như là Mỹ, Úc,
Pháp hay các nước Âu châu khác. Nền dân chủ ở các quốc gia ấy không phải
tự nhiên mà có và cũng không phải nhất thành bất biến. Nó là kết quả
của một lịch sử đấu tranh dằng dặc cả mấy trăm năm của dân chúng ở các
nước ấy. Nó cũng là kết quả của những tương tác từ bao nhiêu yếu tố khác
nhau, từ chính trị đến kinh tế, xã hội và văn hóa. Nhiều yếu tố trong
đó nếu không vắng mặt thì cũng què quặt ở Việt Nam. Có thể ví dân chủ
như một giống cây. Mang từ miền này đến miền khác, nó cần đất đai, khí
hậu, sự chăm sóc và cả thời gian nữa. Để thích nghi. Và để phát triển.
Dân chủ không phải là chiếc xe ngoại cứ việc nhập về giờ trước là giờ
sau đã có thể chạy bon bon trên đường phố được ngay.
Không sai về lý thuyết nhưng cái
“dụng” của những lập luận như trên thì lại rất khác nhau. Trong khi một
số học giả chỉ chứng minh cái khó của quá trình dân chủ hóa, các nhà
độc tài lại muốn nhấn mạnh đến tính bất khả của nó. Trong khi các học
giả muốn tìm kiếm những biện pháp dân chủ khác hữu hiệu hơn là việc
tranh đấu cho các cuộc bầu cử tự do và bình đẳng, các nhà độc tài lại
muốn gạt bỏ mọi nỗ lực dân chủ hóa để tiếp tục duy trì quyền bính và
quyền lợi của mình.
Xin lấy Việt Nam làm ví dụ.
Giới cầm quyền lúc nào cũng rêu
rao: nếu dân chủ tức khắc, Việt Nam sẽ hỗn loạn ngay. Kết luận: để tránh
hỗn loạn, Việt Nam cần độc đảng và độc tài.
Nhưng lập luận như thế thì lại sa vào ngụy biện.
Thứ nhất, có chắc là Việt Nam sẽ
hỗn loạn nếu có dân chủ ngay tức khắc? Đó chỉ là một giả thuyết. Sử
dụng một giả thuyết để chứng minh, trong trường hợp này, chỉ là một sự
hù dọa.
Thứ hai, liệu một sự hỗn loạn có
đáng sợ bằng sự độc tài? Việt Nam thường nêu những hỗn loạn tại Thái
Lan trong mấy năm vừa qua để khủng bố tinh thần dân chúng. Nhưng hầu như
ai cũng thấy những cái gọi là hỗn loạn ở Thái Lan không có gì đáng sợ
so với tất cả những gì người dân nước ấy có được. Biểu tình ư? Đình công
ư? Một số trường hợp bạo động ư? Nhưng kinh tế Thái Lan vẫn phát triển
tốt; xã hội Thái Lan nói chung vẫn yên bình; tính chất dân chủ trong
sinh hoạt chính trị Thái Lan vẫn được bảo đảm dù với một mức độ rất “Á
châu”.
Thứ ba, nếu việc dân chủ hóa hàm
chứa nguy cơ hỗn loạn thì vấn đề là phải tìm cách loại trừ, giảm thiểu
và khắc phục các nguy cơ ấy chứ không phải là từ chối dân chủ. Những
cách thức như vậy khá nhiều. Trong số đó, cụ thể nhất là xây dựng dần
dần các cơ chế dân chủ và vun trồng một nền văn hóa dân chủ. Không có
những sự chuẩn bị như thế, tất cả mọi sự hứa hẹn đều chỉ là những sự lừa
dối.
Ở Việt Nam hiện nay, đã có bất
cứ nỗ lực nào nhằm thực hiện những điều đó? Tôi e là không. Tất cả những
gì giới cầm quyền đang làm và muốn làm là cố gắng làm thui chột văn hóa
dân chủ và trì hoãn việc xây dựng các cơ chế dân chủ.
Để người Việt Nam vĩnh viễn không bao giờ sẵn sàng cho dân chủ cả.
Tôi đã đoán ra ngay chóc!
ReplyDeleteNhững t/g đặc tựa bài như: "Khi nào mới có dân chủ?" hay "khi nào thì Trung cộng đánh VN?", v.v... thường không bao giờ đi thẳng vào câu trả lời, dựa trên những gì mình quan sát để phỏng tính. Mà ngược lại, đi lòng vòng cho đã đời rồi chấm hết, chứ cũng chẳng biết câu trả lời là như thế nào.
Như vậy thì tại sao không đặc tựa bài một cách thành thật hơn một chút? Như "một vài ý nghĩ về dân chủ" chẳng hạn.
T/g không biết đường trả lời cho chính câu hỏi mà t/g đưa ra!
Câu trả lời không khó lắm. Nếu một nước mà chỉ có vài phần trăm dân số hiểu biết về dân chủ thì nước đó sẽ không có dân chủ. Nhưng nếu có trên 50% dân số thực sự hiểu biết về dân chủ thì nước đó sẽ có dân chủ.
Và vấn đề còn lại là làm sao để nâng cao số người hiểu biết về dân chủ mỗi ngày một lớn thêm.