Tưởng Năng Tiến - Bữa trước, tôi nghe ông Nguyễn Hưng Quốc cằn nhằn:
“Chỉ
duy có một điểm chung nhất, ở tất cả các phi truờng tại Việt Nam, từ
quốc tế đến quốc nội: đó là gương mặt lạnh lùng, vô cảm của các nhân
viên hải quan. Đặt chân đến các nuớc khác qua ngả hàng không, điều chúng
ta bắt gặp đầu tiên có thể là một nụ cuời.
Ở Việt Nam thì không. Tuyệt
đối không. Gương mặt nào cũng lạnh tanh. Ánh mắt nào cũng lạnh tanh.
Không khí chung quanh lạnh tanh.”
Qua bữa sau, ông Nguyễn Văn Tuấn cũng càm ràm (y chang) như vậy:
“Phong
cách phục vụ của tiếp viên, của cơ trưởng, và vệ sinh trên
máy bay có lẽ nói lên một thực tế rằng Vietnam Airlines còn
kém rất xa so vói các hãng hàng không nước láng giềng…”
“Nhìn
qua cách họ đưa cái khăn, đến cách nói, hành khách cũng có
thể cảm nhận rằng những người tiếp viên này không yêu nghề,
hoặc yêu nghề mà không nói đuợc tiếng Việt (chứ chưa nói đến
tiếng Anh). Họ làm một cách miễn cưỡng, làm cho có làm.
Và, chả bao giờ thấy nàng cuời.”
Lần
cuối, tôi có dịp đi máy bay – ở đất nước mình – vào cuối năm
1974, trên một chiếc DC-6, cất cánh từ Tân Sơn Nhất. Hôm đó, cận
Giáng Sinh – trời nhiều gió – lao đao mãi chiếc máy bay 4 cánh
quạt mới đáp xuống được phi trường Liên Khương, Đà Lạt.
Tôi
vẫn còn nhớ mãi hình ảnh của những bụi quỳ vàng man dại bên
phi đạo, và mấy tà áo xanh quấn quýt trong gió lộng của mấy
cô tiếp viên nhỏ nhắn, dưới cánh bay. Họ đứng tiễn khách với
nét mặt hơi mỏi mệt nhưng vẫn giữ được nụ cười tươi tắn.
Rồi
đời, chẳng may, phải lâm vào cảnh phải tha phương cầu thực. Tôi
phiêu bạt trên nhiều chuyến bay khác, qua vô số những phi trường
khác, ở khắp mọi nơi nhưng nơi đâu cũng cảm thấy là mình (hơi)
lạc lõng. Tôi vẫn cứ thương hoài nụ cười xinh tươi của những
cô hôtess de l’air Việt Nam, giữa núi đồi Tây Nguyên, vào buổi
chiều hôm đó.
Từ buổi chiều đã
xa lắc xa lơ đó, cho tới chiều nay – tính rẻ ra – cũng cỡ bốn
mươi năm. Biết bao nhiêu là nước sông, nước suối, nước mắt, nước
mưa… đã (ào ạt) chẩy qua cầu, và qua cống. Thời gian qua, điều
gì đã biến cảnh phi trường ở đất nước tôi thành những nơi
chỉ có ánh mắt và khuôn mặt “lạnh tanh” như thế?
Và
nụ cười của người dân Việt, theo tường thuật của ký giả
Quảng Hạnh (Phụ Nữ Today, 07/03/ 2011) đã trở nên hiếm hoi ở
khắp mọi nơi:
“Các chuyên gia
kinh tế dạy, DN muốn thành công, nụ cười phải được lập trình sẵn trong
mọi công đoạn, từ tiếp thị, bán hàng, đến hậu mãi. Và để có nụ cười ấy,
thiện ý tôn trọng khách hàng phải xuất phát từ trái tim, trở thành
nguyên tắc sống còn trong kinh doanh.”
“Người
Trung Hoa thì đúc kết:’Người nào không biết mỉm cười, chớ nên mở tiệm’.
Còn Hải quan Malaysia, luôn gắn trên ve áo khẩu hiệu ‘Phục vụ khách với
nụ cười’. Và Kuala Lumpur đón tới 25 triệu lượt khách du lịch mỗi năm.”
“Nụ
cười là phong cách kinh doanh của những doanh nhân giỏi, những thương
hiệu lớn. Buồn nỗi bán – mua ở Việt Nam, sao hiếm thấy nụ cười…”
Nỗi buồn này, ở Việt Nam, có nhiều nguyên đặc thù nhưng dường như không được mấy ai chia sẻ và thông cảm. Coi:
-
Làm ăn ở một xã hội mà kinh tế quốc doanh làm chủ đạo thì
nụ cười không hẳn đã cần cho “phong cách kinh doanh của những doanh
nhân giỏi.”
- Ở một đất nước
hoàn toàn Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc thì chuyện cười đùa e
không thích hợp, rất dễ bị hiểu (lầm) là có ý xỏ xiên, hoặc
mỉa mai chi đó. Tù tội như không, chớ đâu phải giỡn, mấy cha.
Tự
bản chất, dân Việt (chắc) không hà tiện nụ cười đâu. Họ chỉ
cười không được (hay không nổi) nữa mà thôi. Câu hỏi (thật sự)
cần phải đặt ra là người Việt đã đổi tính, và thôi cười tự
lúc nào cà?
Sự kiện này được nhà văn Phùng Cung ghi nhận (rất sớm) qua một nhân vật trong truyện của ông:
“Bà
Khuê từ một nguời nhanh nhảu, vui tính, hiền dịu, dần dần trở nên kí
cảu, có lúc nặng lời, thậm chí tục tĩu, nghĩ lại và tự thấy nguợng
ngùng. Cái môi truờng sinh sống nó quan trọng thật! Nó nhẹ nhàng vần đi,
vần lại, biến đổi, phân hóa, nó kiểm dấu chìm, dấu nổi giai cấp lên chỗ
dễ tìm thấy, lên mặt từ già lão đến trẻ thơ!” [Phùng Cung. “Mộ
Phách.” Truyện Và Thơ (Chưa Hề Xuất Bản). Văn Nghệ: California, 2003].
Truyện
ngắn Mộ Phách viết về cuộc đời của một đôi vợ chồng (Kép
Chản và Đào Khuê) trong giai đoạn mà người Việt bị cấm cản ca
trù, phải đập đàn và chôn phách. Nhà phê bình văn học Thụy Khuê nhận xét rằng:
“Mộ
Phách là tiếng khóc tiễn đưa thi ca, âm nhạc về bên kia thế giới trong
một thời mà nghệ thuật đích thực bị xử lý như một phạm nhân, qua đó là
sự tàn phá nền văn hoá cổ dân gian, thời Cách mạng tháng Tám.”
Tôi
trộm nghĩ thêm rằng Mộ Phách không chỉ là ”tiếng khóc tiễn đưa
thi ca, âm nhạc về bên kia thế giới” mà còn là tiếng cú báo hiệu
sự mất mát của những nụ cười bình dị, trong đời sống bình
thường, của người dân Việt.
Cùng
với Chiến Dịch Bài Trừ Văn Hóa Phong Kiến là Chương Trình Cải
Cách Ruộng Đất. Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ông Hồ Chí
Minh cho biết:
“Luật cải cách
ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là
làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng
thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ.”
Sự
thực, xem ra, khác xa với lời tuyên bố “chí nhân, chí nghĩa, hợp
lí hợp tình” của ông Hồ. Cách “chiếu cố” của Nhà Nước và Đảng
của ông đã giết chết hàng vạn lương dân và làm tan nát nông
thôn miền Bắc.
Rồi tiếp theo ngay sau đó là cuộc chiến giải phóng miền Nam :
Trại lính, trại tù người đi không ngớt
Người về thưa thớt dăm ba…
Trẻ con đói, xanh như tàu lá.
Cày bừa phụ nữ đảm đang.
Chốn thôn trang vắng bóng trai làng.
Giấy báo tử rơi đầy mái rạ.
Buồn tất cả. Chỉ cái loa là vui!
Người về thưa thớt dăm ba…
Trẻ con đói, xanh như tàu lá.
Cày bừa phụ nữ đảm đang.
Chốn thôn trang vắng bóng trai làng.
Giấy báo tử rơi đầy mái rạ.
Buồn tất cả. Chỉ cái loa là vui!
(N.C.T)
Và
sau khi cái loa hân hoan thông báo miền Nam đã được hoàn toàn
giải phóng thì nụ cười cũng dần biến mất ở nửa phần quê
hương còn lại:
“… không biết
từ lúc nào, chị quên tuốt luốt những câu đùa duyên dáng tạo
niềm vui cho chồng con, chị cũng quên luôn những công việc nho
nhỏ tạo niềm vui cho chính mình, dậy cho con Thành làm toán,
dậy thằng Công đánh vần chẳng hạn. Mà chỉ mình chị vậy thôi
sao, anh Được càng lúc càng lầm lì, đã ít nói còn sanh thêm
gắt gỏng” (Võ Hoàng. Trong Lòng Cách Mạng. Nhân Văn: California, 1983).
Theo
lời giới thiệu của nhà xuất bản Nhân văn, tập truyện Trong
Lòng Cách Mạng sẽ “dẫn người đọc vào một thế giới rất Việt
Nam, một Việt Nam cùng quẫn sau 1975 trong vòng cây của bạo lực,
kể từ cuộc đổi đời bi thảm.”
Vấn
đề không ngừng ở chỗ xã hội thiếu vắng nụ cười, hay thái độ
lạnh lùng và vô cảm. Với thời gian, theo cách nói của đạo
diễn Song Chi, người Việt còn bị “tàn phá về mặt tâm hồn và nhân cách”:
“Ngày
càng nhiều những vụ xô xát, án mạng với tính chất ngày càng man rợ mà
nguyên nhân nhiều khi chỉ vì va chạm nhau trên đường, vì nạn nhân lỡ
‘nhìn đểu’ nên bị đâm cho bõ ghét hay một câu nói, một món nợ tiền bạc
rất nhỏ…Chứng tỏ sự bức xúc, tức tối xã hội bị dồn nén bên trong, không
biết làm cách nào để giải quyết, gặp dịp thế là bùng phát thành tội ác.”
“Tất
cả những điều này cho thấy tâm hồn con người VN nói chung không được
bình yên, không thư thái, thậm chí bất mãn đối với cái xã hội mà họ đang
sống. Nó cũng cho thấy đạo đức, nhân cách, những phẩm chất tốt đẹp của
con người VN đang bị hủy hoại một cách đáng ngại.”
“Xây
dựng lại một đất nước bị tàn phá về kinh tế đã khó, nhưng xây dựng lại
một xã hội trong đó con người bị méo mó, lệch lạc,tàn phá về mặt nhân
cách, tâm hồn, sẽ khó hơn rất nhiều.
Xem
như thế, ngó bộ, còn rất lâu chúng ta mới có thể tìm lại
được nụ cười. Và điều cần để “khôi phục” lại con người bình
thường nơi dân tộc Việt không chỉ là sự thay đổi thái độ mà
còn là chế độ. Cứ tiếp tục mô hình XHCN hiện nay thì sẽ
Xuống Hố Cả Nút, về mọi mặt chứ không riêng gì nhân cách.
© Tưởng Năng Tiến
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment