Dr. Tristan Nguyễn - Đối
với hầu hết mọi nguời Việt Nam ở khắp noi, trong nuớc cung nhu ngoài
nuớc, ngày 30 tháng 4 là một ngày không-bình-thuờng bởi vì ngày này đa
hằn sâu vào trí nhớ, đa ảnh huởng sâu đậm vào tâm lý
vui-buồn-giận-thù-uất-hận của nguời Việt Nam đang sống trong tất cả các
hoàn cảnh hiện tại của họ.
Riêng tôi, Tristan Nguyễn, vào ngày 30 tháng 4
năm 1975 tôi đuợc sanh ra trên một chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa
Kỳ đang ở ngoài khoi Biển Đông, vì vậy cha tôi đa đặt cho tôi cái tên
Tristan có nghia là Buồn, Tristan Nguyễn có nghia là Nguyễn Buồn. Có
phải Nguyễn Buồn rất khác với nhiều nguời Việt Nam ở trong nuớc đuợc
sanh ra trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 và đuợc cha mẹ của họ đặt cho cái
tên Nguyễn Vui hay không?
Tại sao
nguời Việt Cộng Sản hay Việt Cộng cứ nói hoài ngày 30 tháng 4 là ngày
thống nhất đất nuớc nhung rõ ràng đó là ngày nguời dân Việt Nam phân ly?
Tại sao Việt Cộng cứ nói hoài ngày 30 tháng 4 là ngày giải phóng miền
nam VN nhung rõ ràng là miền nam VN lúc đó đa không cần đuợc ai giải
phóng?
Sau những nổ lực quân sự của
cả hai bên Cộng Sản và Quốc Gia điển hình qua trận Việt Cộng Tổng Tấn
Công Tết Mậu Thân 1968 vào tận các tỉnh thành miền nam, các cuộc hành
quân đại qui mô của quân lực VNCH để bình định những vùng nông thôn do
Việt Cộng kiểm soát, và Chiến Dịch Phuợng Hoàng tiêu diệt gần hết hạ
tầng co sở Việt Cộng để giải quyết vấn đề Việt Nam nhung không thành
công; tiếp theo là nổ lực chính trị kết quả của Hiệp Định Hoà Bình Ba Lê
1973 đuợc ký kết để chấm dứt những xung đột có võ trang và lập lại tình
trạng sinh sống bình an ổn định ở cả hai miền nam bắc Việt Nam và để
toàn thể nguời dân Việt Nam thực hiện Quyền Dân Tộc Tự Quyết và Quyền Tự
Do Lựa Chọn chính thể và thống nhất đất nuớc qua những cuộc hiệp thuong
và tổng tuyển cử tự do có lực luợng Liên Hiệp Quốc giám sát.
Hai
bên Cộng Sản và Tự Do gồm có Bắc Việt Cộng và Nam Việt Cộng cùng với Mỹ
và Việt Quốc Gia-VNCH đồng ký kết Hiệp Định Hoà Bình Ba Lê 1973, nhung
chỉ có Mỹ là nghiêm chỉnh thi hành hiệp định trong khi Bắc Việt Cộng,
Nam Việt Cộng, và Việt Quốc Gia đều vi phạm hiệp định.
Mỹ
và các nuớc đồng minh tham chiến ở VN là để bảo vệ cái tiền đồn tự do
dân chủ của thế giới tự do tại Đông Nam Á và đa tạo dựng một nuớc VNCH
rồi củng cố sức mạnh quân sự, chính trị và một nếp sinh hoạt chính trị
dân chủ, một lối sống tự do cá nhân, một trình độ dân trí đủ để cho
nguời dân miền nam VN đủ sức để đuong đầu với Việt Cộng và đủ khôn ngoan
để lựa chọn giữa Cộng Sản và Tự Do. Nhu vậy, tại sao Việt Cộng cung nhu
một số nguời Việt Quốc Gia có thể nói một cách hàm hồ là Mỹ và đồng
minh thua trận và bỏ chạy?
Cho tới
cuối ngày 29 tháng 4 năm 1975 các si quan và nhân viên trực thuộc phòng
Tuỳ Viên Quốc Phòng của Đại Sứ Quán Mỹ vẫn còn tích cực làm việc tại Sài
Gòn. Khi Thủ Tuớng VNCH Vu Văn Mẫu yêu cầu mọi nguời Mỹ phải tức khắc
rời khỏi miền nam VN để nguời Việt Nam tự giải quyết vấn đề Việt Nam với
nhau. Vì tôn trọng Chủ Quyền Việt Nam của nguời Việt Nam những nguời Mỹ
cuối cùng ở Đại Sứ Quán Mỹ phải ra đi vội vã, nhung việc đó không phải
là bỏ chạy truớc sức mạnh của Việt Cộng. Mỹ không bỏ roi VNCH một nuớc
đồng minh ở Đông Nam Á mà chính Mỹ đa hy sinh rất nhiều tài nguyên, nhân
lực để bảo vệ. Lời yêu cầu của Thủ Tuớng Mẫu bắt buộc mọi nguời Mỹ phải
tức khắc rời khỏi miền nam VN là một tình huống vô cùng bất ngờ, bởi vì
Đại Sứ Quán Mỹ đa đánh giá nuớc VNCH còn đủ sức mạnh để cầm cự cho tới
năm ngân sách 1976, và 16 tấn vàng 24K cùng với một số luợng đá quí và
hàng ngàn tỉ tiền đồng VN còn luu giữ tại Ngân Hàng Quốc Gia VN. Mọi kế
hoạch hậu chiến, tái thiết Việt Nam đều bị huỷ bỏ liền sau đó. Mỹ và các
nuớc đồng minh luôn luôn đề cao, bảo vệ Dân Chủ và Tự Do, cung nhu
Quyền Dân Tộc Tự Quyết và Quyền Tự Do Lựa Chọn của nguời dân. Sau khi ra
lệnh đuổi nguời Mỹ và hoàn toàn đóng lại mọi cánh cửa đối với nguời Mỹ,
TT Duong Văn Minh và Thủ Tuớng Vu Văn Mẫu nghi rằng với lập truờng
trung lập, hoà bình, bất bạo động, hợp tác, hoà giải và hoà hợp dân tộc
của họ thì họ có thể thuong luợng, điều đinh, thoả hiệp với Việt Cộng.
Thực tế rất phu phàng là họ đa thất thế chính trị, thất bại thê thảm vì
họ hoàn toàn bị Việt Cộng lừa gạt.
Việt
Cộng đa lợi dụng thời co đối phuong đang rối loạn hàng ngu quân đội
VNCH, việc bỏ trống lãnh thổ Vùng I và Vùng II theo quân lệnh sai lầm
“di tản chiến thuật” của TT Nguyễn Văn Thiệu đa làm dao động mạnh tâm lý
của hầu hết nguời lính cộng hoà. Sau khi Hiệp Định Hoà Bình Ba Lê 1973
đuợc ký kết thì TT Thiệu tuyên bố một lập truờng chống cộng rất cực đoan
“Bốn Không”- không chấp nhận các hoạt động chính trị cộng sản ở miền
nam VN, không thuong luợng với cộng sản, không có chính phủ liên hiệp
với Nam Việt Cộng, không nhuợng đất cho Bắc Việt Cộng hay Chính Phủ CMLT
của Nam Việt Cộng. Điều này đã cho cả thế giới, nhất là Quốc Hội Mỹ
thấy rõ TT Thiệu sai lầm khi chủ truong không nhuợng đất cho cộng sản
nhung lại “di tản chiến thuật” bỏ trống cả Cao Nguyên Trung Phần, duyên
hải miền trung thuộc Vùng I và Vùng II Chiến Thuật của VNCH. Một sai lầm
khác của TT Thiệu là ông không đủ tự tin vào bản lãnh chính trị của
ông, ông trấn áp những nguời quốc gia bất đồng chính kiến với ông, ông
chụp mu cộng sản lên đầu của bất cứ ai chống lại ông cho dù có một số
nguời quốc gia chân chính, và ông lo sợ sẽ bị thất thế chính trị vì nghi
ngờ sẽ có những kẻ phản bội chính nghia quốc gia tôn thờ Marx-Lenin len
lỏi vào tổ chức khi thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân
Tộc để bắt đầu tiến hành giải pháp chính trị. Ở đây trích dẫn Hiệp Định
Ba Lê 1973 nhu sau:
khoản (b) điều 9 Chuong IV quy định “Việc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam” nhu sau:
“
b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam tự quyết định tuong lai chính trị của
Miền Nam Việt Nam thông qua tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ, có
giám sát quốc tế.”
Khoản (a)
điều 11 thì ghi “Ngay sau khi ngung bắn, hai bên Miền Nam Việt Nam sẽ
hiệp thuong trên tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc, tôn trọng lẫn
nhau và không thôn tính lẫn nhau để thành lập Hội Ðồng Quốc Gia Hoà Giải
và Hoà Hợp Dân Tộc gồm ba thành phần ngang nhau…”.
Điều
15 của chuong V Hiệp Ðịnh Paris quy định rất rõ ràng: “Việc thống nhất
nuớc Việt Nam sẽ đuợc thực hiện từng buớc bằng phuong pháp hoà bình trên
co sở bàn bạc và thoả thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không
bên nào cuỡng ép hoặc thôn tính bên nào…Thời gian thống nhất sẽ do Miền
Bắc và Miền Nam thoả thuận…”
Cung
có một sai lầm chính trị nghiêm trọng tuong tự nhu của TT Thiệu khi ông
từ chối không thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc
là Việt Cộng sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam VN, hay nói cách khác
là cuỡng chiếm nuớc VNCH, đa không thành lập một Uỷ Ban Hoà Giải và Sự
Thật của nuớc Việt Nam bởi vì Việt Cộng đa thống nhất VNDCCH-(Bắc Việt
Cộng) với VNCH-(Việt Quốc Gia) vừa bị cộng sản cuỡng chiếm duới hình
thức CPCMLTCHMNVN-(Nam Việt Cộng). Một trong số những thủ đoạn tinh ranh
của nguời CSVN đa đuợc sử dụng nhiều lần nên trở nên rất thành thạo lão
luyện là “lợi dụng nắm thời co đánh cuớp chính quyền” và sau khi đa
cuớp đuợc chính quyền rồi thì không cần gì tới hoà giải hay hoà hợp dân
tộc nữa, và cung là để làm đúng theo câu châm ngôn của thủ lãnh đảng
CSVN- Hồ Chí Minh “Yếu thì liên hiệp. Mạnh thì triệt tiêu”, Việt Cộng
sau khi đa làm chủ cả nuớc Việt Nam thì xây dựng lên những trại tù để
cải tạo các cấp quân nhân, cán bộ, nhân viên chính phủ, chính trị gia,
văn nghệ si, ký giả, nhà giáo, hầu hết trí thức tu sản của VNCH, thay vì
Việt Cộng thành lập một Uỷ Ban Hoà Giải và Sự Thật của nuớc Việt Nam.
Chính
những nguời CSVN-Việt Cộng là những nguời sợ hãi Sự Thật. Họ sợ hãi Sự
Thật nhu Con Ma Cà Ròng sợ hãi ánh sáng mặt trời. Nếu tất cả hai bên
Cộng Sản và Tự Do, bốn phía là Mỹ, VNCH-(Việt Quốc Gia), VNDCCH-(Bắc
Việt Cộng), CPCMLTCHMNVN-(Nam Việt Cộng) đều nghiêm chỉnh thi hành Hiệp
Định Ba Lê 1973, thực hiện đang hoàng giải pháp chính trị thì rõ ràng
Việt Cộng không thể chiếm đuợc nuớc VNCH, không thể chiếm đuợc lòng tin
yêu của nguời dân miền nam VN. Khi có sự giao luu giữa Việt Cộng ở trong
bung biền miền nam ra ngoài tỉnh thành và Việt Cộng ở miền bắc vô miền
nam, không kể một khối luợng rất nhiều thuờng dân nghèo khổ của miền bắc
sẽ trố mắt thèm muốn lối sống sung túc ấm no và tự do của nguời dân
miền nam. Nguời thuờng dân miền bắc lúc đó lựa chọn cái gì? Cộng Sản
nghèo khổ hay Tự Do ấm no??
TT Nguyễn
Văn Thiệu đa không đủ hoặc không có bản lãnh chính trị để chống chọi
với những đối thủ chính trị đối lập với ông là những nguời Việt Cộng
nguỵ trang ở nội tuyến nội thành, những nguời làm chính trị khuynh tả
thân cộng, những nguời quốc gia bất đồng chính kiến không cộng sản, ông
không có đủ bản lãnh để hoà giải và thoả hiệp với những nguời này trong
chính phủ của ông; ông Thiệu cung đa sợ hãi sự thất thế và thất bại của
ông trong một chính phủ liên hiệp ba thành phần cho nên ông đa thẳng
thừng từ chối thành lập Hội Đồng Quốc Gia Hoà Giải và Hoà Hợp Dân Tộc.
TT Thiệu đa bỏ tù những nguời đối lập khi họ đòi hỏi ông thực thi Hiệp
Định Ba Lê. Quốc Hội Mỹ thông qua Đại Sứ Quán Mỹ đa có nhận xét gì về
ông Thiệu khi ông đa có những hành động đối phó sai lầm nhu vậy.
Có
cùng một nỗi sợ hãi giống nhau, Việt Cộng đa sợ hãi Sự Thật nên đa
không thành lập Uỷ Ban Hoà Giải và Sự Thật của nuớc Việt Nam sau khi đã
cuỡng chiếm nuớc VNCH, thống nhất đất nuớc bằng biện pháp quân sự. Bắc
Việt Cộng cung đã cuỡng ép Nam Việt Cộng gấp rút chạy đua trên con đuờng
tiến lên xã hội chủ nghia để cả hai miền Nam Bắc cùng nghèo đói bằng
nhau. Sau khi đã thống nhất hai đảng Nhân Dân Cách Mạng của Nam Việt
Cộng và đảng Lao Động của Bắc Việt Cộng thành một đảng Việt Cộng-CSVN
mặc dù tất cả đều đa là cộng sản, nhung trong nội bộ Việt Cộng cung
không có sự hoà giải với nhau.
Lịch
sử chính trị Việt Nam cho thấy sự hoà giải và thoả hiệp đã bắt đầu khi
thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Tháng 11 năm 1945, Tướng Tiêu
Văn duới quyền của Thống Tuớng Tuởng Giới Thạch đứng ra tổ chức một
cuộc hội nghị hòa giải tại Đại Sứ Quán Trung Hoa gồm có Việt Nam Quốc
Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Minh CS, và đảng Dân
Chủ tham dự. Tất cả các đảng Việt Quốc, Việt Cách, Việt Minh, và Dân Chủ
đều thỏa thuận thành lập một Chính Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến, các bên
tránh xung đột võ trang để giải quyết những vấn đề bất đồng và chấm dứt
việc tuyên truyền đả kích nhau. Tuy nhiên, Chính Phủ Liên Hiệp Kháng
Chiến này không tồn tại lâu. Tháng 7 năm 1946, Việt Minh CS đã tấn công
lực lượng của Việt Quốc.
Để tranh
giành quyền lãnh đạo độc tôn, trong hai năm 1945, 1946 Việt Minh đa
triệt tiêu những thủ lãnh của các đảng phái quốc gia, giết chết rất
nhiều đảng viên của Việt Quốc và Đại Việt Quốc Dân Đảng. Việt Minh còn
giết chết cả những đảng viên Việt CS Đệ Tứ Quốc Tế.
Vào
năm 1947 ở miền tây nam bộ VN, CS Việt Minh đa triệt tiêu Huỳnh Phú Sổ
một thủ lãnh của Phật Giáo Hoà Hảo trong chuyến đi gặp Nguyễn Bình một
thủ lãnh của CS Việt Minh ở miền tây để hoà giải những tranh chấp giữa
PGHH và CS Việt Minh.
Sự hoà giải,
hoà hợp dân tộc và thoả hiệp với CS Việt Minh đa thất bại vì CS Việt
Minh chỉ muốn chiếm giữ vị trí lãnh đạo độc đảng độc tôn. Đây là một bài
học lịch sử rất giá trị mà không ai có thể quên. Nhung không phải vì
thế mà sợ hãi Việt Cộng, một loài Ma Cà Ròng sợ hãi Sự Thật.
Ở
miền nam VN duới thời TT Ngô Đinh Diệm, sự hoà giải và thoả hiệp giữa
chính phủ Ngô Đinh Diệm và các đảng phái quốc gia cung đa thất bại. TT
Diệm đa phản bội những thủ lãnh của các đảng phái quốc gia, những nguời
đa ủng hộ và giúp ông Diệm trong việc truất phế Bảo Đại đua đến việc ông
Diệm trở thành tổng thống đầu tiên của nuớc VNCH. TT Diệm cung đa không
thi hành Hiệp Định Geneva 1954 và từ chối hiệp thuong với Bắc Việt Cộng
trong một giải pháp chính trị để thống nhất đất nuớc qua cuộc tổng
tuyển cử. TT Diệm có lập truờng chống cộng cực đoan, không hoà giải và
thoả hiệp với các đối thủ chính trị thuộc các đảng phái quốc gia, có óc
kỳ thị Phật Giáo, và áp dụng lối gia đinh trị vào việc quản lý nuớc
VNCH.
Do những tham vọng chính trị
bất hảo và ý muốn làm giàu bằng xuong máu của nhân dân Việt Nam nên một
số chính trị gia Việt Nam ở cả hai bên, Cộng Sản và Quốc Gia, đều đã áp
dụng thủ đoạn chính trị độc ác gian manh “yếu thì liên hiệp, mạnh thì
triệt tiêu” để diệt trừ hết những đối thủ chính trị cung nhu những nguời
hợp tác hầu chiếm trọn địa vị độc tôn, độc quyền, và độc tài cai quản
guồng máy quốc gia và qua công việc đó để tham nhung, làm giàu bất
chính.
Thông thuờng là những nguời có
lập truờng cực đoan-cực tả hay cực hữu, những kẻ quá khích khủng bố,
những nguời còn mang nặng thù oán cá nhân, những tên độc tôn-độc tài, ở
bất cứ noi nào họ cung muốn kéo dài sự tranh chấp để trả thù báo oán, để
lợi dụng trục lợi, để tham quyền cố vị huởng đặc quyền đặc lợi; vì thế
mà không chấp nhận sự hoà giải và thoả hiệp. Bởi vì có sự hoà giải và
thoả hiệp thì họ sẽ không còn tranh chấp để trả thù trả oán, để trục lợi
riêng tu, không còn địa vị độc tôn độc đảng độc tài, không còn đuợc
huởng đặc quyền đặc lợi nữa.
Sự hoà
giải, hoà hợp dân tộc và thoả hiệp giữa những nguời Việt Nam làm chính
trị với nhau, những nhà chính trị Việt Nam thuờng thuờng nghi kỵ lẫn
nhau, không chân thật, không ai chịu nhuờng nhịn ai vì có quá nhiều tự
ái, tự cao, tự đại, và tự phụ; vì vậy họ đa gặp phải nhiều khó khăn và
còn trở ngại kéo dài cho tới nay trong khi hon lúc nào hết sự hoà giải,
hoà hợp dân tộc và thoả hiệp giữa những đảng phái chính trị của nguời
Việt Nam là khẩn thiết vì lợi ích của đất nuớc Việt Nam, vì đời sống ấm
no hạnh phúc của toàn thể nguời dân Việt Nam?
Nếu
cha mẹ, cô dì, chú bác của chúng ta đa thành thật hoà giải và ngay
thẳng thoả hiệp đuợc với nhau thì bản thân của tôi đa không đuợc sanh ra
trên một chiến hạm của Mỹ ở ngoài khoi Biển Đông, tôi đa không có cái
tên Tristan Nguyễn hay là Nguyễn Buồn, và các anh chị cung đã không đuợc
đặt cho cái tên là Nguyễn Vui hay Nguyễn Buồn tuỳ theo mỗi hoàn cảnh
riêng của cha mẹ của các anh chị ở Việt Nam. Và khi tôi truy tầm ý nghia
cái tên của tôi, tôi lại có ý muốn tìm hiểu những cái tên khác nhu là
Trần Đại Thắng, Luu Quốc Hận, Nguyễn Phục Quốc, Lê Quang Phục, Mai Trọng
Dân, .v.v. Di nhiên mỗi cái tên đền có ý nghia riêng biệt của nó và
muốn biểu lộ một điều gì đó mà nguời cha hay nguời mẹ đa đặt tên cho con
mình, hoặc là chính nguời mang cái tên đó đã tự đặt tên cho mình. Dù
nhu thế nào thì cái tên cung mang ít nhiều tính chất chính trị và ý thức
hệ mà nguời cha hay nguời mẹ muốn truyền đạt lại cho con.
Nguyễn
Buồn và Nguyễn Vui đang ở hải ngoại cung nhu Nguyễn Vui và Nguyễn Buồn
hiện ở trong nuớc Việt Nam có thể hoà giải với nhau để giải quyết những
vấn-đề-xung-khắc-vì-Vui-vì-Buồn-với-nhau hay không? Hay là Nguyễn Buồn
thì cứ mặc kệ cho Nguyễn buồn. Còn Nguyễn Vui vì đa đuợc vui thì cứ tiếp
tục cuộc vui và cứ thừa huởng đặc quyền đặc lợi di truyền để cứ là
Nguyễn Vui cha truyền con nối? Trong những tình cảnh di truyền nhu vậy
thì những xung đột ý thức hệ chắc chắn còn xảy ra ở trong nuớc Việt Nam.
Ý thức hệ di truyền cộng sản sẽ xung đột với ý thức hệ tự do lựa chọn.
Hôm
nay nhân ngày 30 tháng 4 năm 2011, sinh nhật thứ 36 của những nguời
Việt Nam tuỳ theo từng hoàn cảnh cá nhân mà có tên Nguyễn Vui hoặc
Nguyễn Buồn hiện ở trong nuớc; cung nhu những nguời Việt Nam rời bỏ quê
huong tuỳ theo hoàn cảnh của từng nguời mà mang tên Nguyễn Buồn hay
Nguyễn Vui đang cu ngụ ở nuớc ngoài. Riêng tôi mang tên Nguyễn Buồn,
muốn nhân dịp này mời gọi tất cả những anh chị có cùng tên Nguyễn Buồn
hay Nguyễn Vui hãy cùng tôi thành lập một liên hội thế hệ ngày 30 tháng 4
năm 1975, gọi tắt là Liên Hội Thế Hệ 30 Tháng 4, để trao đổi Vui-Buồn
với nhau. Cho dù anh chị là Nguyễn Vui hay là Nguyễn Buồn, anh chị đang ở
trong nuớc hay ở hải ngoại, chúng ta đều có chung một ngày sanh là 30
tháng 4. Thế Hệ 30 Tháng 4 không thể để cho những chất độc của “lòng hận
thù ngút trời” và “máu của Con Ma Cà Ròng” làm ô nhiễm và ung thối trí
óc và trái tim của chúng ta. Các anh chị Nguyễn Vui hay Nguyễn Buồn đang
ở trong nuớc hay ở hải ngoại, chúng ta không thể tiếp tục có thái độ
lãnh đạm, vô cảm đối với các hoàn cảnh, các sự cố đa đang xảy ra xung
quanh chúng ta. Truờng hợp các anh chị đa có xích mích với nhau vì một
vài xung khắc tình cảm, một vài tranh chấp quyền lợi trong cuộc sống thì
xin các anh chị vui lòng cởi mở, bày tỏ trung thực suy nghi và ý muốn
của mình, sau đó hãy cảm thông hoàn cảnh của nhau và giúp nhau vuợt qua
những khó khăn trong cuộc sống bị gò bó. Khi chúng ta nói lên đuợc sự
thật hoặc trung thực nỗi lòng của mình, chúng ta tự giải phóng đuợc
những gông cùm xiềng xích nội tâm hoặc tự phá vỡ đuợc những rào cản của
xã hội Việt Nam khép kín. Các anh chị thuộc Thế Hệ 30 tháng 4 hãy mạnh
dạn nói lên cảm tuởng gì về thân phận của mình. Chúng ta luôn luôn lắng
nghe lẫn nhau./.
Dr. Tristan Nguyễn
nguyentristan77@yahoo.com
San Francisco, 30/04/2011
Chú thích thêm:
“lòng hận thù ngút trời” đuợc trích từ bài hát Giải Phóng Miền Nam của VC.
“Con Ma Cà Ròng” là đảng viên VC.
Những
cái tên Nguyễn Buồn hay Nguyễn Vui chỉ là tuợng trung cho cả một thế hệ
thanh niên nam nữ nguời Việt Nam hiện ở hải ngoại hay đang cu trú trong
nuớc VN đuợc sanh ra sau biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975.
The April 30th Generation
For
almost Vietnamese all over the world, inside Vietnam as well as
overseas, the date of April 30th is an abnormal day, because this date
has carved into their memories, it has had a deep psychological
influence on happiness-sadness-anger-hostility-depression-revenge of
Vietnamese who have been living in all their current circumstances.
For
me, Tristan Nguyen, on April 30th 1975 I was born on a warship of the
US Navy Seventh Fleet at that time operating just offshore in the
Vietnam East Sea; therefore, my father named me “Tristan” which means
“Sadness”. Tristan Nguyen means Nguyễn Buồn, Tristan Nguyen means Nguyen
Sadness. Nguyen Sadness or Nguyễn Buồn is very different from many
young Vietnamese inside Vietnam who were born on April 30th 1975 and
their parents named them Nguyen Vui meaning Nguyen Joyfulness, isn’t it?
Why do the Vietnamese
Communists or Việt Cộng keep saying that the date of April 30th is the
national reunification date, but this date has been obviously indicating
the Vietnamese suffering their segregation?
Why
do the Việt Cộng keep saying that the date of April 30th is the date of
South Vietnam being liberated, but it is clear that in South Vietnam at
that time the Southern Vietnamese did not need any liberation?
After
the military efforts of both sides, the Communists and the
Nationalists, some typical ground battles such as in 1968 the Việt Cộng
Tet 1968 Gerneral Offensive had attacked every southern provinces, the
large scale military operations by the ARVN armed forces had pacified
almost rural areas controlled by the Việt Cộng, and the Phoenix Campaign
had destroyed almost Việt Cộng infrastructures, but the military
measures could not resolve the Vietnamese problems; following the
political efforts resulted by the Paris Peace Accords 1973 officially
signed on January 27th1973 to end the armed conflicts and restore the
stable and peaceful living situations in both South Vietnam and North
Vietnam for all the Vietnamese people to implement their rights to
People’s Self-Determination and People’s Freedom of Choice regarding the
national political regime and national reunification through
consultations and a free general election with the United Nations forces
monitoring.
The two
sides-Communists and Freedom Fighters-consisting of the Northern Việt
Cộng and the Southern Việt Cộng together with the Americans and the
Vietnamese Nationalists-RVN had officially cosigned the Paris Peace
Accords 1973, but only the US strictly complied with the agreements
while the Northern Việt Cộng, the Southern Việt Cộng, and the Vietnamese
Nationalists-RVN violated the agreements.
The
US and its allies had fought in Vietnam to defend the outpost of
freedom and democracy of the free world in Southeast Asia. The US had
helped build up the Republic of Vietnam and had consolidated its power
of governmental military forces and politics, and its way of free
democratic political activities, as well as a lifestyle of personal
freedom, a level of people’s knowledge valued enough to let the southern
Vietnamese be able to cope with the Việt Cộng and be wise enough to
choose between Communism and Freedom. As its consequence of freedom
should be, why could the Việt Cộng as well as a number of the Vietnamese
Nationalists keep saying ambiguously that the US and its allies had
lost the Vietnam War and had to run away?
Until
very late in the date of April 29th 1975 the officers and employees
under the Defense Attaché Office of the US Embassy were still actively
working in Saigon. When the RVN Prime Minister Vu Van Mau asked all the
Americans still inside Vietnam to immediately leave southern Vietnam in
order to let only the Vietnamese together resolve the Vietnamese
problems. Honoring the Paris Peace Accords 1973 the US had respected for
the Vietnam sovereignty of Vietnamese, the last Americans in the US
Embassy had to move hastily out of Vietnam, but that was not a fleeing
due to Việt Cộng’s military power.
The
US did not abandon the Republic of Vietnam an ally in Southeast Asia
that the U.S. had sacrificed a lot of resources and manpower to defend
it from Communist’s expansion. Prime Minister Mau’s request enforcing
all the Americans to leave South Vietnam at once was a very unexpected
situation, because the US Embassy had reviewed and valued the RVN
Government still retaining its governmental capacities strong enough to
hold out until the next year 1976 budget, and having the 16 tons of 24K
gold with a number of precious stones and thousands of billions VN dong
preserved at the National Bank of Vietnam. Every plan for postwar
reconstruction of Vietnam had to be canceled right after that.
The
US and its allies always upheld and protected Democracy and Freedom, as
well as the People’s Rights to Self-Determination and People’s Freedom
of Choice. After ordering all the Americans move out and completely
closing the door for all the Americans, President Duong Van Minh and
Prime Minister Vu Van Mau thought that with their stance of neutrality,
peace, nonviolence, cooperation, reconciliation and ethnic concord, they
could negotiate, reconcile, accommodate, and compromise with the Việt
Cộng. In very harsh reality, they miscalculated and went down in the
flat world of politics; especially, they were defeated miserably because
they completely fooled by the Việt Cộng’s deception.
The
Việt Cộng armed forces that had had the advantage of the ARVN ranks
disorder took over the territories of the Tactical Zone I and the
Tactical Zone II being vacated under the military command errors; in
fact, that was the “tactical evacuation” of President Nguyen Van Thieu.
President Thieu’s military command errors had very strong impacts on
psychological position of all the ARVN soldiers. After the Paris Peace
Accords 1973 was officially cosigned, President Thieu declared a very
extreme stance against the communists- “Four Nos” – (1) No accepting the
communist political activities in South Vietnam, (2) No negotiating
with the communists, (3) No coalition government with the Southern Việt
Cộng, (4) No conceding any territories to the Northern Việt Cộng or the
Provisional Revolutionary Government of Southern Việt Cộng.
This
strong reaction of President Thieu showed the whole world, especially
the US Congress seeing clearly Thieu’s mistakes when he insisted on not
giving up any land to the Việt Cộng, but he actually ordered the
“tactical evacuation” to vacate the whole Central Highlands, the coastal
regions of Central Vietnam and the Tactical Zone I and the Tactical
Zone II of the RVN. President Thieu’s another mistake was his not having
enough self-confidence in his political skill, he suppressed the
nationalist dissidents who had their political opinions different from
him, he put the communist hat on anyone’s head who dared express
something against him, despite there were actually some genuine
nationalists, and he feared that he would become a loser in the
political struggle because he suspected some Vietnamese politicians who
would betray the cause of nationalism to worship Marx-Lenin and
infiltrated into the establishment of the National Council of National
Reconciliation and Ethnic Concord to proceed the political solution.
Here, citing the Paris Peace Accords 1973 as follows:
Clause
(b) Article 9, Chapter IV regulates, “The implementation of the South
Vietnamese People’s rights to self-determination” as follows: (b) The
South Vietnamese people shall decide themselves the political future of
South Viet Nam through genuinely free and democratic general elections
under international supervision.
Clause
(a) Article 12 Chapter IV indicates, “Immediately after the cease-fire,
the two South Vietnamese parties shall hold consultations in a spirit
of national reconciliation and concord, mutual respect, and mutual non-
elimination to set up a National Council of National Reconciliation and
Ethnic Concord consisting of three equal segments.”
Article 15, Chapter V of the Paris Peace Accords clearly indicates: “The
reunification of Viet Nam shall be carried out step by step through
peaceful means on the basis of discussions and agreements between North
and South Viet-Nam, without coercion or annexation by either party, and
without foreign interference. The time for reunification will be agreed
upon by the North and South Viet Nam.”
Also,
there was a serious political mistake similar to President Thieu’s when
he refused to establish the National Council of National Reconciliation
and Ethnic Concord. After the Việt Cộng completely liberated South
Vietnam, or in other words the Việt Cộng forcefully extorted the RVN,
they did not organize the True and Reconciliation Commission of Vietnam
because the Việt Cộng reunified the Democratic Republic of
Vietnam-(Northern Việt Cộng) with the RVN-(Vietnamese Nationalist) which
had just been extorted by the communists disguised under the
Provisional Revolutionary Government of South Vietnam (Southern Việt
Cộng).
One of the Việt
Cộng’s cunning tricks was used several times that they have become very
adept at “taking advantage of right time opportunity to extort the
governmental power”,and after completely extorting the governmental
power then the Việt Cộng ignored deliberately from acknowledging the
national reconciliation or ethnic concord, and they also strictly
followed the maxim of the VN Communist Party leader Ho Chi Minh -”While
being weak, must link with one another. Once being strong, eliminate
everyone.” After becoming the master of entire Vietnam, the Vietnamese
Communists-Viet Cong built up many re-education camps to imprison all
levels of the ARVN officers, government officials, cadres, politicians,
writers, artists, journalists, teachers, all the RVN bourgeois
intellectuals, instead of establishing the True and Reconciliation
Commission of Vietnam. The Vietnamese Communists-Việt Cộng are really
the persons who scare the Truth. They scare the Truth like the Vampires
scare sunlight.
If all the
two parties-Communists and Freedom Fighters consisting of four sides the
United States, the RVN-(Vietnam Nationalists), the Democratic Republic
of Vietnam-(Northern Việt Cộng), the Provisional Revolutionary
Government-(Southern Việt Cộng) had strictly implemented the Paris Peace
Accords 1973, had decently performed a political solution; obviously,
the Việt Cộng could not have extorted the Republic of Vietnam, could not
have won the trust and the heart of the southern Vietnamese people.
When there were interactions between the Southern Việt Cộng coming in
the towns from the lowland rural areas and the Northern Việt Cộng
arriving at the southern cities, in addition to the great number of very
poor ordinary northern Vietnamese who would pop their eyes amazingly
coveting the sufficient lifestyle, prosperity and freedom of the
southern Vietnamese. Then, what would the northern Vietnamese choose?
The Communist’s poverty or the Freedom’s prosperity?
President
Nguyen Van Thieu had not enough or none of the political skills to
confront with his political opponents who were truly the Vietnamese
Communists disguised themselves as the nationalists living inline-inner
cities; those Vietnamese politicians who positioned themselves as the
leftist- communist tendency; those Vietnamese nationalist dissidents
whose stance was non-communist. He had not enough political skills to
reconcile and accommodate with those Vietnamese politicians in his
government. He was also afraid of going down in the political world and
his failure in the coalition government of three equal components, so he
flatly refused to set up the National Council of National
Reconciliation and Ethnic Concord. President Thieu imprisoned his
opponents when they asked for his execution of the Paris Peace Accords
1973. Through the US Embassy in Saigon the US Congress certainly had
somewhat comments about President Thieu when he had showed some wrong
reactions to cope with the current military and political situations.
Having
the same fears, the Vietnamese Communists-Việt Cộng were so scared by
the Truth, so they have not established the Truth and Reconciliation
Commission of Vietnam after forcefully extorting the Republic of
Vietnam, and carried out the national reunification by actual military
measures. The Northern Việt Cộng also enforced the Southern Việt Cộng to
quickly rush forward on the path of socialism in order to get both
South VN and North VN with equal poverty. After the two parties, the
People’s Revolution Party of the Southern Việt Cộng and the Labor Party
of the Northern Việt Cộng, merged into the Vietnamese Communist Party
although they all had been communists, but within internal situation of
the Vietnamese Communist Party there were not reconciliation and
accommodation with each other.
The
Vietnam’s political history shows that reconciliation and accommodation
began when the Resistance Coalition Government was established. In
November 1945, General Tiêu Văn who was authorized by General
Commander-in-Chief Chiang Kai-shek to host a reconciliation conference
at the Embassy of China including the Vietnamese National People’s
Party, the Vietnamese Revolutionary League, the League for Independence
of Vietnam Communist, and the Democrat Party to participate. All of
them, the Vietnamese National People’s Party, the Vietnamese
Revolutionary League, the League for Independence of Vietnam Communist,
and the Democrat Party, agreed to establish the Resistance Coalition
Government, and all the parties had to avoid any armed conflicts to
resolve disagreed problems and had to terminate their propaganda
activities attacking each other. However, the Resistance Coalition
Government did not last long. In July 1946, the armed forces of the
League for Independence of Vietnam Communists attacked the armed forces
of the Vietnamese National People’s Party.
In
order to compete one another for an exclusive leadership, during two
years in 1945, 1946 the Việt Minh or Việt Cộng eliminated the leaders of
the nationalist parties and killed many party members of the Vietnamese
National People’s Party (Việt Quốc) and the Nationalist Party of Great
Vietnam (Đại Việt). The Việt Minh or Việt Cộng also killed all the
Vietnamese Communist Party members who supported the Trotskyist Fourth
International. In the western region of South Vietnam in 1947, the Việt
Minh-Việt Cộng eliminated Huynh Phu So the leader of the Hoà Hảo
Buddhism in a visit to meet Nguyen Binh the leader of Việt Minh or Việt
Cộng in the western region in order to conciliate the disputes between
the Việt Minh-Việt Cộng and the Hoa Hảo Buddhism.
Reconciliation,
ethnic concord and compromise with the Việt Minh-Việt Cộng failed
because the Việt Minh-Việt Cộng just wanted to capture the exclusive
leadership position of a sole party. This is a very valuable historical
lesson that no one can forget it. But not because of this historical
experience we become to be scared by the Việt Minh-Việt Cộng, a kind of
the Vampires who must be afraid of the Truth.
In
South Vietnam under President Ngo Dinh Diem, reconciliation and
accommodation, compromise between the government of President Ngo Dinh
Diem and the nationalist parties had also failed because President Diem
betrayed the leaders of the nationalist parties, who had supported and
helped Mr. Diem in deposing the Emperor Bao Dai and leading Mr. Diem
become the first president of RVN-South Vietnam. President Diem also did
not implement the Geneva Accords 1954 and refused to negotiate with the
Northern Việt Cộng in a political settlement to reunify the country
through a general election. President Diem had an extreme anti-communist
stance; he did not reconcile, accommodate, nor compromise with his
political opponents of the Vietnamese nationalist parties; he had a view
of Buddhist discrimination; and he applied a nepotism policy in his
management of RVN -South Vietnam Government.
Due
to the illicit political ambitions and wrongful desires to enrich
oneself by the Vietnamese people’s blood during the Vietnam War, some
Vietnamese politicians in both sides, the Vietnamese Communists and the
Vietnamese Nationalists, all have adopted a tactic of political cunning
trick, “While being weak, must link with one another. Once being strong,
eliminate everyone.” to get rid of all political rivals as well as
their collaborators in order to seize the exclusive monopolized
position, and dictatorially rule over the national government and
through that job to take full advantage of corruption and illicit
enrichment.
Usually those
who have a radical or extreme stance-extreme left or extreme right, the
terrorist extremists, those who are still fraught with personal
animosity, the exclusive dictators, in wherever they always want a
prolonged conflict to carry out an evil revenge, to take full advantage
capitalizing on profits, to hang on to their own positions in the
government enjoying their privileged positions; and therefore, they do
not accept the national reconciliation, accommodation, nor compromise.
Because if there is national reconciliation, accommodation and
compromise, they will not have any conflict in order to revenge upon
someone, to take full advantage getting personal profits, no more the
status of a sole party dictatorship, no longer enjoying the special
personal rights with privileges through authoritarian.
Regarding
the national reconciliation, accommodation and compromise among the
Vietnamese politicians who are very often dishonest and always have
suspicions toward one another, who make concessions to no one because of
thinking so superior of themselves due to self-love, being
vainglorious, and being self-important; therefore, they have encountered
many difficulties and the political obstacles have still been extending
until today, while the national reconciliation, accommodation and
compromise between the Vietnamese political parties are imperative in
the interests of Vietnam, the happiness and prosperous life for all the
Vietnamese people.
If our
parents, aunts, uncles have sincerely reconciled and have
straightforwardly compromised with one another, I myself was not born on
a US warship offshore of the Vietnam East Sea, I was not named Tristan
Nguyen or Nguyễn Sadness or Nguyễn Buồn, and YOU, my brothers and
sisters had not been given the names Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness or
Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness depending on the particular circumstances
of each brother’s parents and each sister’s parents in Vietnam. And when
I traced back the meaning of my name, I also intended to comprehend the
meanings of other names such as Trần Đại Thắng-Trần Great Victory, Luu
Quốc Hận-Luu National Resentment, Nguyễn Phục Quốc-Nguyễn National
Restoration, Lê Quang Phục-Lê Glorious Restoration, Mai Trọng Dân-Mai
Respect People, and so on. Of course each name has its distinct meaning
and it appears to express something by the parents who named their
child, or by the person carrying that name had named himself.
Anyhow,
the names have also conveyed somewhat level of more or less political
nature and ideology which the parents expected to transmit to their
child. WE, Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness and Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness
who have presently been living overseas as well as Nguyễn Vui-Nguyễn
Joyfulness and Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness who have currently been
residing inside Vietnam, can reconcile with each other to resolve the
problems regarding the conflicts of being sadness or being joyfulness,
CAN’T WE?? Or just ignore Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness and let him keep
his sadness because he has been sad since 1975. Regarding Nguyễn
Vui-Nguyễn Joyfulness who has been joyful since 1975 just keeps his
endless uproarious parties and just let him inherit his family
privileges retaining to be Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness from the
powerful father-to-son hereditary ruler? In such holding a position by
inheritance through hereditary ruler, the ideological conflicts
certainly must occur inside Vietnam. The ideology of inherited
communists will conflict with the ideology of people’s freedom of
choice.
Today, on the occasion of the date of April 30th2011, the 36th birthday of the young Vietnamese depending on his or her personal circumstances he or she was named Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness or Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness currently living inside Vietnam; as well as those who left their homeland according to each person’s particular circumstances she or he was named Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness or Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness presently residing abroad. For me, I was named Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness, on this occasion I would like to invite all brothers and sisters with the same names Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness or Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness altogether with me to organize the federation of April 30th1975 generation, in short referring as the Federation of April 30th Generation in order to exchange our experiences regarding our Joyfulness and/or our Sadness among ourselves.
Whether
YOU, my brothers or sisters, are Nguyễn Vui-Nguyễn Joyfulness or Nguyễn
Buồn-Nguyễn Sadness, YOU are living inside Vietnam or residing
overseas, WE all have the same birth date as the April 30th. The April
30thGeneration can not let the poison of “lòng hận thù ngút trời-feeling
of enmity and hatred rise high up in the sky” and “Máu của Con Ma Cà
Ròng-Blood of the Vampires” pollute and rot our minds and our hearts.
YOU,
my brothers and sisters Nguyen Vui-Nguyễn Joyfulness or Nguyễn
Buồn-Nguyen Sadness, are living inside Vietnam or overseas, WE may not
continue to have an attitude of apathy, indifference to the
circumstances, the incidents those have been happening around us. In the
case of YOU, my brothers and sisters, have had some disagreements
because of some emotional conflicts, and/or some disputes about the
benefits of living; my brothers and sisters, please open your hearts and
honestly express your thought and your will; then let us sympathize the
plight of each other and help each other overcome difficulties in a
life being restricted. When WE are able to tell the truth and/or our
true feelings, WE are able to free ourselves from the shackles that have
chained our innermost feelings, and/or WE are able to break the
barriers of a closed Vietnam society by ourselves.
YOU,
my brothers and sisters who belong to The April 30th Generation, don’t
hesitate to speak up your impressions about your plight. WE always listen to each other. /.
Dr. Tristan Nguyễn – San Francisco, 30/04/2011
Notes:
(1) “Lòng hận thù ngút trời-feelings of enmity and hatred rise high up
in the sky” is quoted from the song “Giải Phóng Miền Nam” of the Việt
Cộng. (2) “Máu của Con Ma Cà Ròng-Blood of the Vampires” hints at the
Việt Cộng’s blood. (3) Nguyễn Buồn-Nguyễn Sadness and Nguyễn Vui-Nguyễn
Joyfulness are only the symbolized names used to denote the entire young
Vietnamese generation who have been present abroad around the globe or
inside VN since the date of April 30th 1975.
No comments:
Post a Comment